09/03/2013 - 17:20

Tản văn

Những chiếc khăn của nội

 

Sinh thời, bà nội tôi có những chiếc khăn rất đẹp. Bà nói đó là món quà dễ thương mà ông mua tặng bà khi hai người mới cưới. Những chiếc khăn được ông mang về từ khắp nơi, sau nhiều chuyến đi buôn dài hạn trên các chợ nổi Nam Kì lục tỉnh. Khăn có nhiều loại, có loại là vải ka-tê thường, mux-xơ-lin (muslin), sang trọng hơn là lụa Tân Châu-lãnh Mỹ A, hoặc voan… được thêu những đôi chim loan phượng, cành mai, cánh bướm rất tinh xảo, thẳng thớm. Bà rất trân trọng, luôn nâng niu những chiếc khăn, quà tặng của ông từ thời xuân trẻ mãi cho đến khi về già.

Hồi xưa nhà ông giàu lắm! Khi cưới bà về, ông chẳng cho bà làm gì ngoài việc quán xuyến chuyện nhà giúp ông và tham gia tiệc tùng. Những chiếc khăn nhỏ nhắn được bà mang theo trong những bữa tiệc, ngày hội lớn trong làng. Khăn làm tôn vinh thêm nét quí phái, sang trọng của bà, vì ngày xưa, những phụ nữ giàu có thường hay mang khăn theo bên người. Sau những bữa tiệc, bà thường mang những chiếc khăn ra sau hè giặt bằng nước mưa, cẩn thận đem phơi riêng một góc cho đến lúc khô, rồi ướp nước hoa treo trong phòng ngủ. Mỗi sáng thức dậy bà ngắm nhìn nó để nhớ ông trên những chuyến buôn xa.

Năm 50 tuổi, ông qua đời trong cơn bạo bệnh. Bà khóc rất nhiều và đau buồn suốt một thời gian dài. Bà rơi vào trầm cảm, chỉ làm bạn với những chiếc khăn. Ba mẹ tôi khuyên mãi nhưng bà vẫn không nguôi ngoai. Mãi cho đến khi tôi chào đời, nỗi buồn của bà mới tan biến và niềm vui quay trở về trên gương mặt tuổi xế chiều. Tuy vậy, những chiếc khăn vẫn được bà ưu ái. Nó được bà cất giữ tiền và luôn theo bên người. Bà gói tiền bằng nhiều lớp khăn, xếp chéo ngay ngắn theo hình vuông, cẩn thận cho vào túi quần và cài kim tây lại. Tôi nhớ hồi nhỏ có lần theo bà qua đò, cũng vì những chiếc khăn đã làm cho bà khó coi trước mặt mọi người. Ông lái đò buộc phải thu tiền trước vì không có người phụ giúp. Bà ngồi bệt trên gốc đa làng, ngay bến đò và từ từ mở từng chiếc khăn. Ông lái đò thúc giục đến mức sắp hét toáng lên, vậy mà bà vẫn không vội vã, cẩn thận mở đến chiếc khăn cuối cùng và đưa tiền cho ông ta. Bà nhẹ giọng bảo tôi: “Bà già rồi, không thể nào nhanh được. Chậm mà chắc, cháu ơi!”.

Những chiếc khăn của bà dù đã sờn bạc nhưng bà vẫn yêu quý, thậm chí có những chiếc đã cũ rách nhưng bà vẫn không bỏ đi mà cho vào rương lưu giữ. Bà yêu ông sâu đậm đến thế. Nhưng rồi cũng đến lúc bà xa rời những chiếc khăn. Bà hấp hối trong một chiều mưa. Ba đạp xe gần ba cây số hỏa tốc đến trường để chở tôi về nhà. Tôi đau đớn khi nghe ba thông báo bà sắp mất. Hai cha con khóc òa trong mưa. Vừa về đến nhà, tôi chạy ùa ngay đến bên giường bệnh để nhìn mặt bà lần cuối. Người tôi ướt sũng, nước mắt chảy dài trên hai gò má, đôi tay bé nhỏ của tôi cố bấu víu sự sống của bà trên mười ngón tay già nua run rẩy. Bà khó nhọc đưa tay lần vào túi quần, dúi vào tay tôi những chiếc khăn cũ kĩ rồi nhắm mắt. Tôi ôm chặt lấy bà khóc thống thiết. Ngoài trời mưa như trút nước.

Rất nhiều năm sau đó, tôi vẫn giữ gìn kỷ vật yêu quý của bà để lại: đó là những chiếc khăn lụa rất xưa. Nó luôn nhắc tôi nhớ về bà. Đồng thời nó là nguồn động lực mạnh mẽ giúp tôi vượt qua những khó khăn trong cuộc sống, chăm học và sống sao cho phải đạo làm người. Trong lá thư nhàu nát được gói cùng với những chiếc khăn, bà muốn tôi học tốt để sau này là nhà kinh doanh giỏi như ông. Tôi bước vào giảng đường đại học kinh tế với số điểm khá cao. Đó là nhờ công lao của bà, của ba mẹ và niềm tin ở chính bản thân tôi. Bốn năm ở trường, tôi tự nhủ lòng sẽ học thật giỏi để không phụ lòng mong mỏi của bà. Tôi yêu bà nhiều lắm!

NGUYỄN THANH VŨ

Chia sẻ bài viết