12/12/2009 - 08:50

An ninh lương thực quốc gia

Nhìn từ vựa lúa ĐBSCL

Xem kỳ 1: Thực lực vựa lúa

Kỳ 2: Những thách thức vùng lúa trọng điểm

Năng suất lúa đang có nguy cơ chựng lại, diện tích đất trồng lúa giảm theo quá trình đô thị hóa và phát triển công nghiệp, biến đổi khí hậu đang đe dọa vai trò chiến lược ANLT của vùng. Theo nhận định của các chuyên gia, nếu không kiểm soát tốt quỹ đất trồng lúa nước của vùng ĐBSCL và có đầu tư tương xứng với tiềm năng của vùng, thì đến một lúc nào đó, ĐBSCL sẽ mất đi vai trò chiến lược về ANLT quốc gia!

Đất trồng lúa giảm

Theo thống kê của Bộ NN&PTNT, giai đoạn 2000- 2008, diện tích đất trồng lúa cả nước giảm 255.300 ha; khu vực ĐBSCL giảm nhiều nhất 205.400 ha. Tại hội nghị “An ninh lương thực” vào cuối tháng 5-2009 ở Cần Thơ, nhiều nhà khoa học nêu giả định: Diện tích đất trồng lúa giảm 1%/năm, năng suất tăng 2,5%/năm và diện tích giảm này được chuyển đổi sang trồng nông sản khác như: rau, màu, cây ăn trái... hoặc nuôi thủy sản thì đến năm 2020 vẫn đảm bảo ANLT. Tuy nhiên, xuất khẩu gạo sẽ khó khăn. Trường hợp năng suất không tăng như dự kiến (0%/năm) thì đến năm 2020, lượng lúa sản xuất chỉ đáp ứng nhu cầu cơ bản trong nước như: làm giống, để ăn và sản xuất thức ăn gia súc; đồng thời, không còn lương thực bổ sung cho dự trữ hoặc xuất khẩu.

Tại TP Cần Thơ, theo quy hoạch sử dụng đất thành phố đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, đất nông nghiệp sẽ giảm từ 115.676 ha (năm 2005) xuống 108.494 ha năm 2010 và 99.527 ha năm 2020, nhiều nhất ở vùng đất ven sông, ven đô thị hiện hữu. Trong đó, đến 2010 diện tích đất trồng lúa giảm xuống còn 75.210- 79.780 ha/năm và năm 2020, diện tích này định hình khoảng 64.360 ha- 54.220 ha. Còn tỉnh Đồng Tháp, giai đoạn 2005-2008, diện tích trồng lúa bình quân của tỉnh khoảng 460.000 ha/năm, sản lượng 2,5-2,7 triệu tấn và chiếm khoảng 13,3% tổng sản lượng lúa cả vùng ĐBSCL. Theo qui hoạch, đến năm 2010, diện tích đất lúa của Đồng Tháp khoảng 430.000 ha (sản lượng 2,576 triệu tấn) năm 2015 là 420.000 ha (sản lượng 2,581 triệu tấn), năm 2020 giảm còn 410.000 ha (sản lượng 2,583 triệu tấn)...

Giảm diện tích trồng lúa, dịch sâu bệnh, biến đổi khí hậu... đang là những thách thức cho vựa lúa ĐBSCL. Ảnh: LÊ HOÀNG VŨ 

Giám đốc Sở NN&PTNT TP Cần Thơ Phạm Văn Quỳnh cho biết: “Do yêu cầu phát triển đô thị, diện tích đất nông nghiệp của thành phố hiện còn khoảng 130.000 ha, trong đó cây lúa 90.000 ha. Sắp tới diện tích lúa chỉ còn khoảng 70.000 ha và thành phố đang cố gắng duy trì diện tích này. Nông nghiệp hiện chiếm 14-15% trong GDP thành phố, nhưng chi phối rất lớn đời sống của người dân nông thôn. Nếu không có giải pháp phát triển bền vững cho khu vực nông nghiệp- nông thôn sẽ trở thành lực cản cho sự phát triển của ngành khác”. Theo ông Quỳnh, tốc độ đô thị hóa ngày càng nhanh, diện tích đất lúa giảm, nếu không chủ động đổi mới sản xuất và đầu tư tương xứng cho vùng nông thôn, thì khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị- nông thôn, sẽ nới rộng nhanh. Trong khi đó, nhiều chuyên gia nông nghiệp cho rằng, diện tích đất nông nghiệp màu mỡ ở khu vực ĐBSCL đang “nhường” chỗ lớn cho quá trình phát triển công nghiệp, nhưng nhiều khu công nghiệp của vùng diện tích sử dụng mới chỉ đạt 5-10% tổng diện tích qui hoạch.

GS.TS Bùi Chí Bửu, Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam, cho rằng: “Trong quá trình hội nhập kinh tế, thị trường xuất khẩu được chú trọng, nhưng thị trường nội địa đầy tiềm năng lại ít được quan tâm. Do đó, luôn đứng trước thách thức, rủi ro vì thiếu kinh nghiệm. Thêm vào đó, chất lượng qui hoạch sử dụng đất lúa còn nhiều bất cập nhưng chưa được rà soát, điều chỉnh phù hợp với thực tế. Đặc biệt, việc sử dụng diện tích đất lúa nước để phát triển công nghiệp, dịch vụ đang diễn ra ở nhiều địa phương mà chưa được tính toán một cách đầy đủ”. Theo GS.TS Bùi Chí Bửu, giá cả nông sản thấp, trong khi nhu cầu tiêu dùng tăng nên không khuyến khích người lao động; lao động cho nông nghiệp ngày càng khan hiếm, lao động trẻ, có học vấn di chuyển ra thành phố. Việc phát triển lúa đang bộc lộ nhiều yếu tố kém bền vững như: bệnh đạo ôn, rầy nâu bộc phát gây thiệt hại nghiêm trọng do chúng ta ứng xử với thiên nhiên không tốt (mùa vụ liên tục, thâm canh cao, áp dụng phân bón, thuốc hóa học không đúng)... sẽ tạo áp lực lớn cho chiến lược đảm bảo ANLT quốc gia.

Năng suất đội trần?

Theo dự báo của Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT) đến năm 2020, sản lượng lúa của toàn vùng vẫn dao động ở mức 21-22 triệu tấn. Trong khi đó, sản lượng lúa toàn vùng năm 2009 ước khoảng 20,63 triệu tấn. Tiến sĩ Phạm Văn Dư, Cục phó Cục Trồng trọt, cho rằng thử thách lớn nhất hiện này là đất lúa đang giảm dần, năng suất và sản lượng hầu như đụng trần. Sâu bệnh đang gây hại đối với lúa do thời vụ liên tục, nông dân bón thừa phân hóa học trên đồng ruộng gây thất thu năng suất và sản lượng. Tất cả vấn đề này sẽ tác động đến ANLT. Mức đầu tư cho nông nghiệp từ ngân sách cũng giảm, trong khi khả năng đầu tư của nông dân có hạn. Tuy nhiên, cũng có luồng ý kiến cho rằng, năng suất lúa hiện chưa đội trần, mức năng suất hiện tại là phù hợp với khả năng đầu tư sản xuất của nông dân.

Diện tích canh tác đất lúa bình quân trên nông hộ tại ĐBSCL 0,3-0,5 ha/hộ; việc gia tăng năng suất sẽ tăng đầu tư và đa số người trồng lúa là người nghèo. Một số ý kiến của chuyên gia nông nghiệp cũng khẳng định, hiện các tỉnh, thành trồng lúa đang tập trung cải thiện năng suất để nâng cao sản lượng, nhưng mục tiêu đề ra vẫn còn là đích để phấn đấu! Tiến sĩ Lê Văn Bảnh, Viện trưởng Viện lúa ĐBSCL, nêu nhận định: “Năm 1976, năng suất lúa toàn vùng chỉ đạt 4,2 triệu tấn. Nhờ vào lợi thế của điều kiện tự nhiên thích hợp cho cây lúa, nên cây lúa ĐBSCL vừa là cây chủ lực vừa là cây đảm bảo ANLT quốc gia và cung ứng lúa gạo cho thị trường thế giới”. Theo tiến sĩ Bảnh, trong sản xuất lúa gạo đến nay vẫn còn nhiều bất cập, là vùng sản xuất gạo chính nhưng nông dân trồng lúa ĐBSCL vẫn nghèo và gặp khó khăn nhiều nhất. Bởi không ai sản xuất lúa để làm giàu và minh chứng là những người trồng lúa đa phần là hộ nghèo do diện tích canh tác bình quân trên nông hộ thấp. Chỉ có những hộ trồng lúa từ 3 ha trở lên mới có thể xem là trồng lúa làm giàu, nhưng phải đảm bảo nắm vững kỹ thuật. Viện lúa đã từng nghiên cứu ra các giống lúa lai, năng suất 8-10 tấn/ha, nhưng không phổ biến là do chi phí đầu tư rất cao và sâu bệnh rất nhiều. Nếu phổ biến, đến một lúc nào đó sẽ trả giá cho vấn đề này.

Ông Đàm Văn Lý, ấp 7B2 xã Vị Thanh, huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang, cho biết: “Tôi canh tác 1,6 ha lúa, chi phí đầu tư chiếm 60% giá thành sản xuất. Diện tích đất sản xuất của tôi rộng, nên có điều kiện tìm hiểu kỹ thuật, trình độ nông dân mỗi người khác nhau, người nghèo ngày càng nghèo, lợi nhuận không cao nên những người diện tích ít ngại đầu tư. Nông dân thiếu thốn, những con lộ nhỏ Nhà nước đầu tư lại không đáp ứng nhu cầu vận chuyển lúa hàng hóa, nên chi phí đội lên cao hơn vào vụ sản xuất. Rồi phải bán lúa ướt cho thương lái, do lò sấy không đáp ứng nhu cầu, vị trí không thuận lợi cho vận chuyển”. Ông Lý cho rằng, hiện nhiều nông dân cũng không quan tâm đến đổi mới kỹ thuật, nên công cuộc xóa đói giảm nghèo còn khó. Nông dân sẽ thoát nghèo một giai đoạn nhất định theo sự hỗ trợ của Nhà nước rồi lại tái nghèo. Từ năm 2000 đến nay, năng suất lúa đi xuống, nông dân ngã ngũ (đầu tư cao, lợi nhuận thấp...) do sợ rủi ro. Do vậy, nhiều người ly hương tìm kế sinh nhai, vì thế phải giải quyết ly hương mới giải quyết được cái nghèo, nông dân mới gắn bó với đồng ruộng.

Còn ông Lê Hoàng Thắng, thị trấn Thới Lai, huyện Thới Lai, TP Cần Thơ, cho biết: “Tôi canh tác 3 ha lúa, vụ đông xuân được 8 tấn/ha, hè thu 5 tấn/ha, nhưng chi phí sản xuất mấy năm nay quá cao, chiếm hơn 60% giá thành. Nếu giá lúa ổn định trên 4.000 đồng/kg thì may ra lời 30%, còn 3.800 đồng/kg thì không có lời, bởi công cắt lúa hiện đã 120.000 đồng/công do thiếu nhân công, rồi thêm các chi phí khác, ngót nghét hết 5 giạ/1 công đất. Ai nắm vững kỹ thuật mới mong có lợi nhuận, không là trắng tay, lâm vào nợ nần”. Theo tính toán của ông Phạm Văn Quỳnh, Giám đốc Sở NN&PTNT TP Cần Thơ, năng suất 3 vụ lúa/ha/năm tại Cần Thơ hiện tại đạt 13,5 tấn lúa hàng hóa. Hiện với 90.000 ha đất trồng lúa của thành phố, đảm bảo sản lượng trên 1 triệu tấn lúa/năm. Còn mục tiêu lợi nhuận cho nông dân từ 30% trở lên, với năng suất này có thể đạt được, song với điều kiện giá lúa từ 3.800 đồng và cao hơn, nhưng nếu tính một cách đầy đủ, tỷ lệ lợi nhuận này không đạt.

Thách thức của biến đổi khí hậu

Các nhà khoa học, chuyên gia cho biết, sau năm 2020 biến đổi khí hậu, chất thải công nghiệp... sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất trồng lúa. Trong vòng 100 năm tới, ĐBSCL sẽ có từ 1,5-2 triệu ha đất nông nghiệp bị nhiễm mặn không sản xuất được, chủ yếu là đất lúa...

Hằng năm, xâm nhập mặn ảnh hưởng đến 50.000 ha lúa hè thu và tác động trực tiếp đến hệ thống canh tác lúa tôm khoảng 250.000 ha ở các tỉnh ven biển; khô hạn cũng tác động đến 300.000 ha lúa hè thu (Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Tiền Giang và Long An), đồng thời gây khô hạn cục bộ cho 500.000 ha vào cuối tháng 4 đến giữa tháng 5 hằng năm. Thêm vào đó, lũ sông Mê Công tác động trực tiếp đến 500.000 ha lúa tại An Giang, Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang và Kiên Giang, đồng thời ảnh hưởng tới sản xuất vụ thu đông và vụ đông xuân của năm sau. Theo khảo sát của Viện Khoa học Thủy lợi, năm 2008, vào các tháng mùa khô, độ mặn xâm nhập vào ĐBSCL với tỷ lệ 4g/l cùng với kịch bản nước biển dâng thêm 0,5-1m thì mặn sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến dòng chính đối với nguồn nước phục vụ sản xuất nông nghiệp. Nếu mặn tiến sâu vào nội đồng 90km, độ mặn 4g/l thì có tới 71% diện tích đất lúa vùng ĐBSCL bị nhiễm mặn, còn mặn tiến vào nội đồng 50km, diện tích bị nhiễm mặn ở mức 29,2%...

GS.TS Bùi Chí Bửu, Viện trưởng Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam, cho biết: “Hàng năm, xâm nhập mặn kết hợp với thiếu nước đầu nguồn sông Mê Công từ tháng 12 năm trước đến tháng 5 năm sau đã trở nên nghiêm trọng. Bên cạnh đó, việc lấy nước mặn nuôi tôm ở bán đảo Cà Mau đã phát sinh nhiều vấn đề mà chúng ta còn đang giải quyết một cách thụ động. Trong 5-10 năm tới, lưu lượng nước vào tháng khánh kiệt nhất (tháng 4) của sông Mê Công ở đầu nguồn dự báo giảm gấp đôi so với hiện nay do sự khai thác của các nước Tiểu vùng sông Mê Công. Điều này sẽ tạo nguy cơ đưa tầng sinh phèn cao hơn mực thủy cấp và ảnh hưởng rất lớn đến năng suất lúa”. Diện tích đất trồng lúa ở Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, Tây sông Hậu (khoảng 1,8 triệu ha) đang đứng trước nguy cơ không kiểm soát được phèn bằng biện pháp “ém phèn bằng nước”. Theo GS.TS Bửu, giống chống chịu phèn lai tạo thành công nhưng rất chậm vì thiếu sự hợp tác giữa các nhà khoa học thuộc những chuyên ngành khác nhau. Tại ĐBSCL suốt một thời gian dài, giống xác nhận được gieo trồng thấp hơn 2% diện tích gieo trồng. Bên cạnh đó, chất lượng nước ở các sông rạch, kênh chính ngày một bị ô nhiễm, đất bạc màu tăng. Tất cả bất cập này sẽ khó giải quyết, nếu không có sự chuẩn bị ngay từ bây giờ...

THU HÀ

Diện tích trồng lúa theo qui hoạch của Bộ NN&PTNT

 


Kỳ 3: HỆ LỤY CỦA VIỆC ĐẦU TƯ THIẾU ĐỒNG BỘ

Xem kỳ 1: Thực lực vựa lúa

Chia sẻ bài viết