(TTXVN) - Năm 2024, Bộ Khoa học và Công nghệ đặt mục tiêu “tăng tốc, bứt phá” với nhiều nhiệm vụ quan trọng. Trọng tâm là thúc đẩy thị trường khoa học công nghệ, trong đó, xác định những công nghệ trọng điểm, công nghệ lõi cần ưu tiên.
* Dựa vào thế mạnh, thực tiễn để tăng tốc
Theo Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Huỳnh Thành Đạt, nhiệm vụ ưu tiên đầu tiên trong năm 2024 của ngành là tiếp tục triển khai hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về lĩnh vực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, phát huy vai trò của đội ngũ trí thức, phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học. Cùng với đó, xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật thúc đẩy phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, trong đó tập trung sửa đổi quy định về đầu tư, cơ chế tài chính và xử lý tài sản đối với các hoạt động khoa học công nghệ.
Năm 2024, ngành Khoa học và Công nghệ tiếp tục triển khai Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030; triển khai các Chương trình, nhiệm vụ khoa học cấp quốc gia trung hạn đến năm 2025 và dài hạn đến năm 2030. Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt cho biết, ngành xác định rõ những công nghệ trọng điểm, công nghệ lõi, công nghệ cao cần ưu tiên phát triển dựa trên thế mạnh, thực tiễn của Việt Nam; đổi mới cách xác định và triển khai các nhiệm vụ phục vụ, sản phẩm quốc gia, sản phẩm trọng điểm, sản phẩm chủ lực của địa phương; tập trung hoàn thiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học công nghệ.
Đặc biệt, ngành tập trung phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo quốc gia; thị trường khoa học và công nghệ; đẩy mạnh hoạt động chuyển giao công nghệ; thẩm định công nghệ dự án đầu tư. Cùng với đó, tập trung các giải pháp hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ và đẩy mạnh đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động; có các giải pháp đẩy mạnh hoạt động chuyển giao công nghệ; thẩm định công nghệ dự án đầu tư; kiểm soát dự án đầu tư sử dụng công nghệ hạn chế chuyển giao; xác định dự án đầu tư sử dụng công nghệ lạc hậu, tiềm ẩn nguy cơ gây ô nhiễm môi trường, thâm dụng tài nguyên khi hết thời hạn hoạt động.
Ngành đẩy mạnh các hoạt động về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng hỗ trợ nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, hàng hóa; bảo hộ, thực thi quyền sở hữu công nghiệp, khai thác tài sản trí tuệ, ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình; đẩy mạnh cải cách hành chính gắn với xây dựng Chính phủ điện tử hướng đến Chính phủ số; cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp, hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về khoa học công nghệ.
* Bứt phá từ đổi mới sáng tạo
Năm 2023, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhưng với sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Đảng, Nhà nước, Quốc hội và Chính phủ, ngành Khoa học và Công nghệ đã nỗ lực hoàn thành kế hoạch công tác năm 2023 với nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, theo Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt, khoa học và công nghệ vận động không ngừng, đòi hỏi các cơ chế, chính sách quản lý khoa học và công nghệ luôn cần được rà soát để điều chỉnh kịp thời mới theo kịp và đáp ứng, hỗ trợ được hoạt động khoa học và công nghệ một cách hiệu quả; đặc biệt là trong bối cảnh mới với các diễn biến phức tạp, khó đoán định của thế giới hiện đại và sự thay đổi chưa từng có tiền lệ trước tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Điều này đòi hỏi ngành Khoa học và Công nghệ phải luôn chủ động, sáng tạo và linh hoạt thích ứng để ứng phó kịp thời.
Với lĩnh vực đổi mới sáng tạo, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt nhận định, trong năm 2024 và những năm tiếp theo, cần tiếp tục kiên trì đổi mới tư duy, thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp lớn về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo; đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ; nâng cao tiềm lực và trình độ khoa học và công nghệ; thúc đẩy phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; tăng cường hợp tác và hội nhập quốc tế về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Để làm được điều này, Bộ trưởng cho rằng, bên cạnh sự ủng hộ, chung tay của các cấp, các ngành và toàn xã hội, cần sự quyết tâm và nỗ lực lớn hơn nữa của lực lượng khoa học và công nghệ cả nước.
Trong vai trò đầu mối quản lý hoạt động khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, Bộ trưởng Huỳnh Thành Đạt, Bộ sẽ tham mưu với Chính phủ tạo môi trường, điều kiện tốt hơn nữa cho hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo, từ đó, động viên đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ kiên trì theo đuổi giấc mơ lớn, niềm đam mê khoa học, vượt lên các khó khăn, thách thức để tạo ra nhiều thành quả khoa học và công nghệ thiết thực, mang lại lợi ích cho đất nước, người dân và xã hội, đóng góp cho kho tàng tri thức của nhân loại.
* Thành tựu đáng ghi nhận
Theo báo cáo của Bộ Khoa học và Công nghệ, năm 2023, cùng với việc hoàn thiện hành lang pháp lý về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, ngành Khoa học và Công nghệ đã đẩy mạnh triển khai các hoạt động quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Chỉ số đổi mới sáng tạo (GII) của Việt Nam liên tục được cải thiện trong 13 năm qua cho thấy hiệu quả trong việc chuyển các nguồn lực đầu vào thành kết quả đầu ra đổi mới sáng tạo. Năm 2023, Việt Nam xếp thứ 46/132 quốc gia/nền kinh tế, tăng 2 bậc so với năm 2022, duy trì vị trí thứ 2 trong nhóm 36 nền kinh tế thu nhập trung bình thấp; là một trong 7 quốc gia thu nhập trung bình đạt được nhiều tiến bộ nhất về đổi mới sáng tạo trong thập kỷ qua.
Bộ Khoa học và Công nghệ đã xây dựng Bộ Chỉ số Đổi mới sáng tạo cấp địa phương (PII) và chính thức triển khai trên toàn quốc từ năm 2023. Đây là công cụ đo lường năng lực và kết quả đổi mới sáng tạo của từng địa phương trên cả nước, góp phần cải thiện chỉ số đổi mới sáng tạo quốc gia. Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030 đã được cụ thể hóa bằng 44 chương trình khoa học công nghệ cấp quốc gia giai đoạn đến năm 2025 và đến năm 2030, cân đối cho cả ba lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học kỹ thuật và công nghệ. Các nghiên cứu về khoa học xã hội và nhân văn đã cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước, xây dựng các Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng… Các nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, tập trung vào nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng trong các lĩnh vực Việt Nam có thế mạnh nhằm đạt trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới.
Trong nông nghiệp, khoa học công nghệ đã góp phần thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa nông sản đạt trên 53 tỷ USD/năm, thặng dư thương mại ngành đạt hơn 11 tỷ USD, mức cao nhất trong những năm gần đây và chiếm trên 42,5% xuất siêu cả nước, trong đó có 6 sản phẩm nông nghiệp có giá trị xuất khẩu trên 3 tỷ USD. Trong công nghiệp, giao thông, xây dựng, đã nghiên cứu, chế tạo thành công nhiều sản phẩm công nghiệp với tỉ lệ nội địa hóa cao, giá trị kinh tế lớn, từng bước tiếp thu, làm chủ các công nghệ cao của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đặc biệt, các kỹ sư Việt Nam đã hoàn toàn làm chủ các khâu từ thiết kế đến thi công các công trình phức tạp như cầu Mỹ Thuận 2 và nhiều công trình hạ tầng quy mô lớn khác, tiết kiệm lượng lớn kinh phí cho ngân sách nhà nước.
Trong lĩnh vực khoa học y - dược, ghép tạng tiếp tục được ghi nhận là điểm sáng từ việc đầu tư, nghiên cứu và ứng dụng công nghệ; đã thực hiện thành công ca ghép đa tạng gồm tim và thận từ người hiến đa tạng chết não; phối hợp ghép tạng xuyên Việt; nghiên cứu thành công quy trình sử dụng tế bào gốc tạo máu tự thân trong điều trị bệnh nhân nhược cơ và lupus ban đỏ hệ thống... là những thành tựu đáng ghi nhận của các nhà khoa học. Trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh, kết quả nghiên cứu góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả khai thác, làm chủ vũ khí, trang bị kỹ thuật mới; tạo ra một số sản phẩm khoa học và công nghệ có giá trị, đáp ứng yêu cầu tác chiến mới…
Trong lĩnh vực công nghệ cao, Bộ Khoa học và Công nghệ đã phối hợp với các bộ, ngành giải quyết các vấn đề quan trọng cho việc tiếp cận công nghệ sản xuất chip bán dẫn. Tỉ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao đạt gần 50% tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu. Đồng thời, triển khai hiệu quả các nhiệm vụ khoa học công nghệ về phát triển các công nghệ chủ chốt của công nghiệp 4.0 Việt Nam có lợi thế như trí tuệ nhân tạo, phân tích dữ liệu lớn, internet kết nối vạn vật, robot tiên tiến, in 3D, công nghệ thực tế ảo...
Hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo quốc gia ngày càng phát triển về quy mô và hình thức hoạt động, được đánh giá là một trong những hệ sinh thái năng động nhất châu Á và đứng thứ 58 thế giới. Thủ đô Hà Nội lần đầu tiên lọt vào top 200 thành phố khởi nghiệp sáng tạo toàn cầu. Đầu tư cho khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo giữ được mức phát triển tốt so với các nước khu vực ASEAN (với 56 dự án, tổng vốn đầu tư gần 500 triệu USD trong 6 tháng đầu năm 2023)./.
Thu Phương