31/10/2011 - 10:19

HƯỞNG ỨNG NGÀY TOÀN DÂN MUA VÀ DÙNG MUỐI I ỐT (2-11)

Muối I ốt cần thiết cho mọi người

Người dân khám bệnh bướu cổ tại phòng khám bướu cổ - Trung tâm Y tế dự phòng TP Cần Thơ. Ảnh: LÊ KHẢI 

I ốt là một nguyên tố hóa học có trong tự nhiên và là một chất rất cần thiết cho cơ thể. Tuy rằng chúng ta chỉ cần một lượng rất nhỏ nhưng đều đặn hàng ngày, y học gọi là nguyên tố vi lượng thiết yếu. I ốt cần cho sự tổng hợp hóc môn tuyến giáp gọi là thyroxin, đây là một chất có tác dụng thúc đẩy sự làm việc của mọi tế bào. Hóc môn tuyến giáp đóng vai trò đảm bảo cho nhiều hoạt động quan trọng của cơ thể như đảm bảo quá trình chuyển hóa tạo ra năng lượng, duy trì thân nhiệt; phát triển xương, não bộ và hệ thần kinh trong thời kỳ bào thai và vài năm đầu sau sinh…

Người ta thấy rằng lượng I ốt bổ sung cho con người hàng ngày chủ yếu qua thức ăn với 60% từ động vật, 30% từ thực vật, 10% từ nước và không khí. Nhiều người trước đây cho rằng việc thiếu I ốt sẽ gây nên bướu cổ, điều này chỉ đúng một phần. Khái niệm “Các rối loạn do thiếu I ốt” do B. Hetzet đưa ra năm 1983 nói lên hậu quả của việc thiếu I ốt không chỉ gây bướu cổ, mà còn gây nhiều hậu quả khác. Có thể tóm tắt 4 thời kỳ như sau: Thời kỳ bào thai: sảy thai, tăng tử vong chu sinh, khuyết tật bẩm sinh, đần độn thể thần kinh (thiểu năng trí tuệ, điếc, câm, liệt cứng 2 chi dưới), đần độn thể phù niêm (thiểu năng trí tuệ, lùn); Thời kỳ sơ sinh: bướu cổ sơ sinh, thiểu năng tuyến giáp; Thời kỳ trẻ em và thiếu niên: bướu cổ, thiểu năng tuyến giáp, cơ thể chậm phát triển; Thời kỳ người lớn: bướu cổ và biến chứng, thiểu năng tuyến giáp, trí tuệ kém phát triển, sức lao động kém.

Như vậy, việc thiếu I ốt sẽ trầm trọng hơn nếu thiếu trong giai đoạn bào thai và 3 năm đầu đời vì làm tế bào thần kinh giảm phát triển về số lượng và chất lượng, đưa đến sự đần độn, chậm phát triển về trí tuệ.

Bướu cổ do thiếu hụt I ốt gọi là bướu cổ đơn thuần hay bướu cổ địa phương hay bướu cổ không độc. Bướu cổ đơn thuần nói chung không gây ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe ngoại trừ bướu quá lớn gây chèn ép các cơ quan lân cận gồm khí quản, thực quản, dây thần kinh và ảnh hưởng đến thẩm mỹ hoặc biến chứng ung thư. Tuy nhiên, nguyên nhân gây bệnh (ăn uống không đủ lượng I ốt hàng ngày) lại quan trọng hơn bản thân bệnh vì những hậu quả tiềm ẩn khác tính trên mức độ cộng đồng và vì những hậu quả này một khi đã xảy ra rồi thì chúng ta không thể ăn bù gấp đôi lượng I ốt.

Trước đây người ta cho rằng bệnh thiếu I ốt xảy ra chủ yếu ở miền rừng núi do thiếu các sản phẩm thực phẩm từ biển và muối. Tuy nhiên, số liệu điều tra của Bệnh viện Nội tiết trung ương trong những năm qua cho thấy độ bao phủ muối có nồng độ I ốt đủ để phòng bệnh, mức I ốt niệu (chỉ số trung gian đánh giá nồng độ I ốt trong máu) tại các tỉnh đồng bằng, thành phố cũng đáng báo động, kể cả TP Hồ Chí Minh, TP Cần Thơ và các tỉnh khu vực phía Nam. Đặc biệt, qua những đợt điều tra gần đây cho thấy các chỉ số này đều giảm nghiêm trọng so với năm 2005 trên toàn vùng Nam bộ.

Bảng: nồng độ I ốt trung bình trong một số thực phẩm (mcg/kg). 

Các thức ăn từ biển có nồng độ I ốt cao hơn hẳn các thực phẩm khác

Bảng: nồng độ I ốt trung bình trong một số thực phẩm (mcg/kg).

Mỗi ngày chúng ta cần khoảng 150mcg I ốt (mcg (mi crô gam) = 1/ triệu gam); trẻ em cần dùng ít hơn trong khi phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú thì cần nhiều hơn (khoảng 200mcg). Số lượng này bằng khoảng 5-8g muối đã trộn sẵn I ốt tùy lượng I ốt bị thất thoát trong quá trình vận chuyển từ nhà máy trộn đến nơi tiêu thụ và bảo quản bị mất đi nhiều hay ít. Số lượng 5-8g muối bằng với tổng lượng muối hàng ngày mà mỗi người ăn vào, nếu chúng ta chỉ dùng muối I ốt thì số lượng này là đủ. Tuy nhiên theo điều tra thì người dân ĐBSCL hiện vẫn thiếu muối I ốt trong cơ thể cho dù hàng ngày họ ăn hơn 10g muối (thói quen ăn mặn của người Việt Nam), đó là do: Không chuyên dùng muối I ốt: nhà nào cũng có ít nhất một bọc muối I ốt nhưng nêm thức ăn chủ yếu bằng muối thường; Tập quán phổ biến dùng nước mắm, nước tương, bột nêm... trong bữa ăn hàng ngày mà những gia vị này thường không có muối I ốt; Tập quán muối dưa, muối cá, làm chao, các loại mắm...: đều không sử dụng muối I ốt; Bảo quản muối I ốt không đúng cách: I ốt sẽ bốc hơi dần theo thời gian trong muối trong quá trình bảo quản, vận chuyển; để lọ muối I ốt gần bếp lửa và mở nắp cũng làm I ốt mất đi mau chóng, tránh ẩm ướt vì I ốt tan vào nước và trôi đi.

Ngoài những lý do trên, phụ nữ thường thiếu I ốt là do nhiều người trong số họ không thích ăn cá biển, ít dùng rong biển; một số rau họ cải cũng làm cản trở sự hấp thu I ốt khi ăn sống.

Để phòng các rối loạn do thiếu hụt I ốt dễ dàng nhất là sử dụng muối I ốt hàng ngày trong khi chế biến hầu hết các loại thức ăn. Muối I ốt giá rẻ, không đắt hơn so với muối thường bao nhiêu vì hiện đang được nhà nước trợ giá và hàng ngày chúng ta chỉ dùng một lượng không nhiều. Hàm lượng pha I ốt tại nơi sản xuất là 40ppm (phần triệu) nhưng trong quá trình lưu thông, I ốt sẽ mất đi và thực tế chỉ còn khoảng 20ppm (tương đương 200mcg/10g muối) khi đến tay các bà nội trợ. Lượng I ốt này vừa đủ cho nhu cầu mỗi người nếu ta chỉ nêm thức ăn bằng muối I ốt; lượng I ốt trong nước, thức ăn khác thường rất ít, nếu có dư sẽ được đào thải qua nước tiểu.

Khi bảo quản lọ muối I ốt nên đậy nắp kín, tránh ẩm ướt và để xa hơi nóng của bếp lửa hoặc ánh sáng mặt trời. Muối I ốt không nên rang lên vì sẽ làm mất I ốt. Ngoài sử dụng muối I ốt, các bà nội trợ cũng nên tăng cường các thức ăn từ biển trong bữa cơm hàng ngày như cá biển, rong biển; đặc biệt rong biển có hàm lượng I ốt rất cao. Khi sử dụng các rau họ cải thì nên nấu chín để các chất thioglucoside là các chất kháng I ốt sẽ bị tiêu hủy đi khi gặp nhiệt độ cao.

Bs. DƯƠNG PHƯỚC LONG
Trung tâm Y tế dự phòng TP Cần Thơ

Chia sẻ bài viết