29/10/2017 - 09:13

Miếu Vệ Thủy và giá trị lịch sử 

Vệ Thủy là tên một ngôi miếu nằm ở phường Vĩnh Mỹ, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang. Khởi thủy đây là tên của một đội thủy binh của tỉnh An Giang thời nhà Nguyễn, từng tham gia chống Pháp trong những ngày đầu thực dân đến xâm lược đất An Giang. Miếu Vệ Thủy ngày nay là nơi người dân tôn thờ hai vị lãnh đạo của đội binh năm xưa, đó là Chánh đội trưởng Đỗ Đăng Tàu và Phó đội trưởng Lê Văn Sanh.

Hai ông Đỗ Đăng Tàu và Lê Văn Sanh đều là người gốc Minh Hương, đến Việt Nam tỵ nạn sau khi nhà Thanh lật đổ nhà Minh. Tổ tiên các ông đến lập nghiệp ở miền Trung rồi sau đó lại di cư vào Nam, sinh sống tại làng Mỹ Hội Đông (huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang ngày nay). Theo lời kể dân gian, hai ông là thanh niên giỏi võ nghệ, tinh thông chữ nghĩa… Chính vì ở cùng làng lại có nhiều điểm giống nhau, nên hai ông sớm trở thành bạn thân từ thuở thiếu thời.

Miếu Vệ Thủy.

Trưởng thành, hai ông cùng tham gia quân đội triều Nguyễn. Ông Đỗ Đăng Tàu giỏi về thủy chiến nên được Tổng đốc An Hà phong làm Chánh đội trưởng đội thủy binh, ông Lê Văn Sanh là Phó đội trưởng. Hai ông chỉ huy một đội thuyền kiểm soát trên sông Hậu thuộc địa bàn tỉnh An Giang, nhiều lần dẹp bọn thảo khấu trên sông nước, giữ an ninh giao thương đường thủy. Năm 1842, đội thủy binh được phân công dàn trận dẹp loạn thổ phỉ ở vùng biên giới dọc kinh Vĩnh Tế. Hai ông đã bày kế phục binh và đánh thắng, dân tình từ đó được yên ổn. Lập công lao nầy, vua Thiệu Trị sắc phong cho đội quân là Vệ Thủy binh.

Khi đương chức, xét thấy vùng ngoại thành Châu Đốc còn hoang vu, hai ông cho đào một con mương để phục vụ cho việc tập kết chiến thuyền, lấy tên đội quân đặt cho tên mương là Vệ Thủy (ngày nay người dân gọi là mương Thủy, thuộc phường Vĩnh Mỹ, thành phố Châu Đốc). Đồng thời hai ông cũng tiến hành khai khẩn đất hoang lân cận mương Vệ Thủy, mộ dân đến sinh sống, lập nghiệp.

Năm 1867, khi Pháp đánh chiếm An Giang, vì không muốn chiến thuyền rơi vào tay giặc, hai ông huy động lực lượng mang thuyền về giấu ở mương Vệ Thủy, ẩn lánh chờ thời cơ phục kích. Chẳng may sự việc bị bại lộ, hai ông cùng quân lính phải nhấn chìm thuyền và bí mật rút lui vào rừng Bảy Thưa. Khi đó, khu rừng nầy là bản doanh của nghĩa binh Gia Nghị chống Pháp, đội Vệ Thủy binh của hai ông Đỗ Đăng Tàu và Lê Văn Sanh đã đầu quân dưới trướng chủ soái Quản cơ Trần Văn Thành.

Nghĩa binh Gia Nghị được huấn luyện bài bản, tự rèn đúc vũ khí, được nhân dân tiếp tế và những nghĩa sĩ tham gia mỗi lúc một đông; đặc biệt, địa bàn hoạt động là “nê địa”- đất trũng thấp và sình lầy khiến người không quen địa hình sẽ rất khó thâm nhập… Nghĩa quân đã nhiều lần gây cho Pháp hoang mang lớn. Chúng giở trò chiêu dụ nhưng bất thành. Đầu năm 1873, Pháp tổ chức càn quét lớn vào căn cứ.

Mặc dù chống trả ngoan cường, nhưng lực lượng chênh lệch, vũ khí thô sơ, nên trước hỏa lực mạnh mẽ của địch, binh Gia Nghị bị đàn áp, rừng Bảy Thưa bị thiêu rụi. Quản cơ Trần Văn Thành cùng một số ít tàn quân rút sâu vào vùng núi, sau đó thì không ai còn thấy tung tích. Hai ông Đỗ Đăng Tàu và Lê Văn Sanh cùng một nhóm quân ít ỏi khác cũng rút lui, sau đó âm thầm quay về làng cũ, khoác áo nông dân chờ đợi cơ hội mới.

Nhưng chí lớn không thành, hai ông sống lặng lẽ đến những ngày cuối đời, ra đi trong niềm đau vong quốc. Ông Đỗ Đăng Tàu mất ngày 19 tháng 6 âm lịch, mộ ông ở chợ Xẻo Bún. Ông Lê Văn Sanh mất ngày 2 tháng 10 âm lịch, mộ ông ở chợ Tham Buôn. Người ta không nhớ chính xác hai ông mất năm nào, chỉ nhớ ngày tháng để làm lễ giỗ, hai địa danh nơi có phần mộ hai ông hiện nay đều thuộc xã Mỹ Hội Đông, huyện Chợ Mới.

Với công lao cùng nhân dân địa phương khai phá vùng đất mới ở khu vực mương Vệ Thủy, thảo trừ bọn cướp bóc trên sông Hậu và miền biên giới Thất Sơn, tham gia khởi nghĩa Bảy Thưa hết lòng bảo vệ quê hương trong những ngày đầu bị xâm lược… hai ông Đỗ Đăng Tàu và Lê Văn Sanh được nhân dân tôn sùng, kính ngưỡng. Năm 1953, miếu Vệ Thủy được ra đời trên vùng đất mương Vệ Thủy xưa, sau đó được trùng tu nhiều lần để có được diện mạo khang trang ngày nay.

Mặt trước của miếu hướng về sông Hậu, mặt sau hướng ra đường Châu Long (phường Vĩnh Mỹ, thành phố Châu Đốc). Miếu có kiến trúc đơn giản mang phong cách dân tộc, kết cấu ba gian hai chái. Nóc là một ngôi cổ lầu có gắn tượng lưỡng long tranh châu, linh thú và các hoa văn, các mặt của cổ lầu có tranh sơn thủy. Mái nhị cấp lợp ngói ống. Tường sơn màu vàng, có các cửa sổ vuông cách điệu hình chữ “thọ”.

Trong miếu bài trí thờ phượng trang nghiêm, ấm cúng. Án thờ cao nhứt ở giữa, thờ hai ông Đỗ Đăng Tàu và Lê Văn Sanh, đặc biệt là các sắc phong của vua Minh Mạng và Thiệu Trị vẫn còn được giữ gìn và trân tàng nơi đây. Hai bên án thờ chánh còn có bàn thờ Tiền hiền và Hậu hiền- những người đã có công khai mở đất đai, xây dựng làng xóm. Nội thất được trang trí bởi nhiều hoành phi, liễn đối trang nhã. Các tác phẩm nghệ thuật được chạm khắc tinh tế hình tứ linh, chim muông, hoa lá… Trích giới thiệu một số câu đối tiêu biểu:

“Phụng mệnh hoàng triều khai cơ nghiệp

Thủy binh sắc tứ tại biên thùy”.

“Phong chiếu hoàng triều an sĩ thứ

Khâm thừa quân mạng trấn giang biên”.

“Vệ tổng cơ đồ đức hóa hoàng triều do đạo thánh

thành xã tắc giang sơn Nam quốc chánh vi thần”.

Lễ hội hằng năm được diễn ra vào ngày mất của hai ông. Nội dung nghi lễ giống như các đình làng Nam bộ, cũng có các nghi thức: Thỉnh Sắc, Túc yết, Chánh tế, Hồi Sắc…

Với những công lao đó của hai vị Chánh- Phó đội trưởng Vệ Thủy binh Đỗ Đăng Tàu và Lê Văn Sanh, ngôi miếu thờ hai vị rất xứng đáng trở thành một trong những di tích lịch sử tiêu biểu gắn liền với quá trình xây dựng và bảo vệ vùng đất Châu Đốc. Miếu Vệ Thủy không chỉ mang giá trị lịch sử, mà còn thể hiện rất rõ tấm lòng tri ân của nhân dân đến những tiền nhân có công với quê hương. 

VĨNH THÔNG

Chia sẻ bài viết