25/02/2012 - 20:06

Mặt trời qua khe cửa

Truyện ngắn: TÂN LỘC

Chị sinh vào mùa đông. Cha mẹ đặt tên cho chị: Trần Thị Đông. Chị không thích cái tên của mình, dù miền Nam không giá rét vào mùa đông nhưng mọi người đều liên tưởng đến cái ẩm ướt, lạnh lẽo và cô độc của mùa cuối cùng trong năm. Thực ra cha mẹ chị rất lạc quan, hy vọng đứa con gái đầu lòng, chị cả của 6 đứa em (Đông, Đảo, Xôm, Tụ, Không, Sợ, Khổ) sẽ dẫn dắt, làm nhiều điều tốt đẹp cho em út.

Chị làm nghề bới rác đã 30 năm nay. Ban ngày, chị mặc đồng phục công nhân vệ sinh, quét dọn đường phố; đêm chị lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm, nhặt nhạnh từ các bãi rác, túi rác, tìm thứ gì có thể bán được, nuôi sống gia đình. Đêm nay, chị mới nhặt được hơn chục vỏ lon bia, ít thanh sắt gỉ, mấy tấm thùng cạc-tông, chắc bán được hơn chục ngàn, có tiền mua thuốc cho thằng Khổ. Suốt đêm nó ngồi trên võng, ôm ngực ho sù sụ. Tội, thằng nhỏ ốm yếu, mang trong mình đủ thứ bệnh: tim, gan, phổi... 8 tuổi lại mắc chứng động kinh, chẳng học hành gì được. Má chị vừa sinh nó ra thì chết vì băng huyết. Nhiều người khuyên ba chị cho thằng nhỏ nhưng ông khóc, nói: “Bả vì sinh nó mà chết, chả lẽ tui đem con cho người khác. Dù ăn mắm mút giòi, cha con tui phải nương tựa nhau”.

12 tuổi, chị Đông đảm đương vai trò người mẹ. Ban ngày ba chạy xe lôi, chị chắt nước cơm pha đường, đút em. Đêm, ba nhận chở thuê hàng bông ra chợ, chị phải dậy từng chập, thay tã, dỗ em. Sau cái chết cùng lúc của thằng Không và thằng Sợ, ba chị già hẳn đi. Chỉ một đêm đầu ông bạc trắng. Buổi trưa, tụi nó đi học về, quăng cặp trên bàn, đeo cánh tay chị: “Chị Hai, thưởng tụi em cái gì, hôm nay mỗi đứa đều điểm mười môn toán!”. Chị ậm ừ: “Chiều chị xin tiền ba, mua tụi em mỗi đứa một cây kem, chịu không?”. “Dạ chịu!”. Tụi em đi tắm sông nghe chị!”. Chị lo chẻ rau muống thuê cho người ta, tối dần, hai đứa nhỏ không thấy về. Cả xóm tốc nhau rọi đèn đi tìm, hôm sau thì mò thấy xác cả hai.

Thằng Tụ 18 tuổi, gương mặt sáng láng, thông minh đi bộ đội. Nó là đứa có trình độ nhất nhà, học đến lớp 10. Chị hy vọng, em mình sau xuất ngũ sẽ là trụ cột, giúp cả nhà vươn lên. Vậy mà, mới năm rưỡi, Tụ từ chiến trường Campuchia trở về, những cơn sốt rét nhanh chóng tàn phá cơ thể nó. Mái tóc dày, mượt, chỉ còn vài sợi loe hoe; mắt trõm sâu, lơ láo, miệng nó cười ngô nghê, không còn nhận ra người thân với những cơn điên bất chợt. Chị nhìn em đau như ai cắt từng khúc ruột. Lưng ba chị còng xuống, một hôm nhìn thấy những vết bầm trên người chị, ông khóc: “Thằng Tụ lại đánh con hả? Em nó mất trí, đừng giận nó nghe con! Cố gắng chăm sóc các em. Giờ tụi nó trông cậy vào con!”. Chị cười mếu máo: “Con biết mà ba!”. Đó là lần trò chuyện sau cùng của hai cha con chị. Tối đó, sau chuyến chở hàng bông ra chợ, ông không về. Người ta tìm thấy xác ông bên lề đường, cạnh chiếc xe lôi, trên đầu một vết thương sâu như bị đập bằng ống sắt. Đồng nghiệp của ông đưa tang rất đông, kể: “Mấy đêm trước, ông Tư thấy băng cướp giật gây án, tố cáo với công an nên bị tụi nó trả thù”.

Ba mất, thằng Xôm thuê thùng ba gác, móc chiếc SS-67 của cha vào, chạy chở vật liệu xây dựng, kiếm tiền phụ chị nuôi em, mới hơn năm thì xảy ra tai nạn. Khi xe lên dốc cao, bị tắt máy, mất đà, lật ngang, Xôm bị xe đè, tuy thoát chết, nhưng chấn thương cột sống, phải nằm một chỗ, chỉ còn hai cánh tay có thể cử động linh hoạt. Khổ trở thành người chăm sóc cho các anh, vừa chăn anh trai mất trí, vừa đỡ đần cho người anh tàn phế. Sau giờ làm, chị Đông tất tả ra chợ mua ít rau, cá về lo bữa cơm, quét dọn, giặt giũ. Một ngày lao động của chị kết thúc sớm nhất lúc 12 giờ khuya và bắt đầu từ 4 giờ sáng cùng với Khổ, Xôm chẻ rau muống thuê, đến 7 giờ thì vội vã đi làm. Hết năm này, tháng nọ chị không biết bệnh là gì, có nhức đầu, sổ mũi thì cũng ráng cho qua. Đảo làm phụ hồ, ngày kiếm được vài chục ngàn, lúc đầu đưa chị phân nửa, sau thì không đưa đồng nào, còn về nhà đòi tiền chị mua rượu. Đông thương em trai, gần ba mươi tuổi, muốn lấy vợ, nhìn cảnh gia đình ảm đạm, làm sao không nóng nảy, buồn bực cho được. Thấy Đảo sinh rượu chè, chị không trách mắng, chỉ lựa lời khuyên lơn. Có bữa, cả nhà ăn cơm, nhìn cảnh Xôm nằm trên chiếu, một tay vịn tô cơm trên ngực, một tay cầm muỗng múc đưa vào miệng, chốc chốc cơm canh lại đổ ra ngoài; còn Tụ lên cơn, chổng mông la hét, hất đổ nồi cơm lông lốc giữa nhà, đang ngồi, Đảo bật đứng bật, kêu giọng đau đớn: “Trời ơi, gia đình gì như địa ngục, làm sao sống nổi!”. Chị Đông chưa biết nói gì, Đảo đã vào buồng, quảy túi xách với ít bộ đồ và mấy thứ cần dùng mà hình như cậu ta soạn sẵn từ lúc nào, đi thẳng ra cửa. Chị Đông chạy theo nắm tay: “Đừng đi em, dù gì mình cũng là gia đình, sướng khổ có nhau. Em và chị may mắn còn lành lặn mà lo cho em út, đừng bỏ tụi nó”. Đảo gạt tay chị: “Sống khổ thế này, chẳng thà tui không nhìn thấy còn hơn!”.

Đã hơn chục năm nay, chị Đông chẳng nhận được tin tức của thằng em kế. Chị không biết, giờ cậu ta có vợ con gì chưa, không vướng bận cảnh khổ gia đình, cậu ta có làm ăn khấm khá hơn lên? Chị luôn cầu mong em trai mình sống lương thiện, ít nhọc nhằn, một ngày nào đó quay về đoàn tụ gia đình.

***

Tóc chị Đông năm nay bạc nhiều, gần 50 tuổi rồi còn gì. Tuy không đẹp nhưng chị thuộc dạng phụ nữ có duyên, giỏi giắn. Năm 20, có người coi mắt, chị từ chối; 35 tuổi, một người đàn ông ly hôn ngỏ lời, chị lắc đầu. Mới đây, một đồng nghiệp vợ chết nhiều năm, gả xong đứa con út, muốn cùng chị gá nghĩa cuối đời, chị cười buồn: “Tôi cũng quý anh nhưng còn gánh em út nặng nề. Coi như số tôi không may mắn, kiếp này chỉ có thể làm chị của các em tôi, chứ không thể làm vợ ai cả...”.

***

Căn nhà lá nhỏ rách bươm rộng hơn 25m2 của 4 chị em: Đông, Xôm, Tụ, Khổ, nằm trong một ngách hẻm của xóm Trâm Bầu, khuất sau bức tường căn hộ nhiều tầng phía trước nên quanh năm không nhìn thấy ánh mặt trời. Phần đất này trước giải phóng là con rạch nhỏ, năm 1970, cha mẹ chị Đông từ quê dắt díu bầy con ra đây san lấp thành một nền nhà, che chòi ở tạm. Hơn 40 năm sống trong mái nhà che chắn tạm bợ này, chị Đông luôn coi nó là tổ ấm, dù cả khi nghe hàng xóm gọi đùa là căn nhà bất hạnh.

Không phải là người mê tín nhưng chị Đông vẫn tin con người có số. Chị thường nói với đồng nghiệp: “Cái gì của mình thì của mình, cứ làm hết sức, cái gì đến sẽ đến...” thế nên dù sống trong hoàn cảnh bi đát, phải làm việc quần quật, chị không hề buồn nản, tuyệt vọng. Năm ngoái, khi bới rác chị quen với một phụ nữ khá giả, biết cảnh nhà chị, bà ta dụ ngọt chị làm tay em trong đường dây ghi đề cho bà ta, hoa hồng mỗi ngày cả một phần ba tháng lương chị đang nhận nhưng chị kiên quyết từ chối. Chị tự hào nhớ lại ba kể: Đã nhiều năm nhưng ở quê chị, người ta vẫn nhắc hồi ông nội ra riêng, chỉ có con trâu tài sản quí nhất mà ông vẫn dám bán, dựng phòng thuốc nam, khám bệnh hốt thuốc miễn phí cho người nghèo. Ba chị không làm ngơ trước cái xấu, cái ác đã phải bỏ mạng, sao chị có thể kiếm tiền bất chính? Mới đây, mấy chị công nhân cơ quan rủ chị đi chùa Ước gần cầu Mỹ Thuận, thật ra đó là ngôi chùa thờ Phật bà Quan Âm, được đồn đại ai có lòng tin, thành tâm khấn nguyện một điều ước (chỉ 1 điều duy nhất) thì hầu hết đạt thành ý nguyện. Thấy chị Đông quá khổ, các chị bạn hứa bao tiền ăn, tiền xe để chị đi nhưng chị từ chối. Chị nói: “Tôi chỉ ước được mạnh khỏe để lo cho các em. Còn ước gì khác chắc không thành vì ai cũng ước giàu có, hạnh phúc, như thế sao còn người nghèo, khổ?”.

Trưa nay, chị Đông vừa về nhà, thì cô Bảy Hoàng, cán bộ Mặt trận phường tới. Cứ vài ngày thì cô Bảy đến một lần, khi thì con cá lóc, khi thì nửa ký thịt, vài hộp sữa cho gia đình chị. Trước cô là cán bộ quận, nghỉ hưu tham gia công tác phường. Chồng mất sớm, con cái thành đạt, làm việc ở thành phố Hồ Chí Minh nhiều lần năn nỉ cô lên sống chung nhưng cô nói: “Quê cha đất tổ, mồ mả ông bà, người thân ở đây, lại có chòm xóm, họ hàng, quen rồi!”. Nhờ cô Bảy mà Tụ được nhận trợ cấp xã hội hàng tháng. Mấy năm nay, đồ Tết của chị em Đông đều của cô Bảy xin của con dâu, con rể mang cho. Rảnh, tối cô đến ngồi chẻ rau muống tiếp chị em Đông, gần gũi thân tình như người trong dòng họ. Cô Bảy nói: “Có nhiều người khổ nhưng ai đâu mà khổ như chị em bây, có người nghèo nhưng vì không chí thú làm ăn, đáng trách; còn gia đình này nghèo tiền bạc nhưng sống lương thiện, cô thương!”. Chỉ một câu nói giản đơn như thế của cô Bảy mà chị Đông xúc động đến rơi nước mắt và như tiếp thêm sức mạnh để chị tự hào về truyền thống trong sạch của gia đình mà nỗ lực vượt khó.

Cô Bảy Hoàng hồ hởi: “Đông ơi, cô nói rồi, “gái có công, chồng không phụ”, địa phương vừa họp xét, thống nhất cất nhà tình thương cho gia đình con rồi. Vậy là tụi bây sắp có mái nhà lành lặn rồi đó!”. Chị Đông cười, ngồi phịch xuống nền nhà, nước mắt chảy dài trên má. Xôm, Khổ vỗ tay mừng rỡ như trẻ con; Tụ không biết gì cũng nghệch mặt lên trời, cười lớn. Gia đình ông Năm, dì Ba hàng xóm chạy qua chia vui, người bàn một ý, xem nên dựng lại nhà mới thì trổ cửa hướng nào, đặt kệ thờ ông bà, cha mẹ ở đâu cho trang trọng. Đang huyên thuyên, bỗng chị Đông nghe mùi khét, chực nhớ nồi cơm còn trên bếp. Chị vội chạy vào và ngạc nhiên khi thấy ánh nắng trưa rọi xuyên qua khe cửa gian bếp, thành một vệt sáng lóng lánh. Chị đưa tay hứng ánh nắng, bỗng nhiên thấy nó thật ấm áp và quen thuộc. Vậy mà lâu nay chị cứ nghĩ từ mái nhà ẩm thấp này không thể nhìn thấy ánh mặt trời...

Chia sẻ bài viết