Truyện ngắn của HỒNG SA
Tôi cùng một số bạn già cựu chiến binh đến nhà anh Hai Lành, cũng là một lính cựu, để dự liên hoan mừng anh vừa cất được một căn nhà mới. Căn hộ chẳng có gì sang trọng, chỉ bình thường như nhiều nhà khác trong khu lao động ở một phường mới được xây dựng của thành phố Cần Thơ. Ngoài cái khung ảnh Bác Hồ rất đẹp được treo ở chỗ trang trọng nhất, tôi chú ý đến hai cái bàn thờ được làm bằng gỗ quý và chạm trổ rất công phu. Hai ông bà cụ có ảnh để chung trên một bàn thờ, còn bàn thờ kia, không có ảnh! Tôi tò mò hỏi, anh Hai trầm ngâm một chút mới trả lời:
- Đó là bàn thờ của một người hàng xóm!
Tôi hơi lạ:
- Hàng xóm mà sao anh lại thờ một cách trang trọng vậy?
Anh Hai đáp, giọng hơi buồn:
- Đây là một câu chuyện ân tình.
***
Xưa nay, anh Hai Lành là người ít nói, nhưng nói đâu ra đó. Với giọng trầm trầm, anh Hai kể:
- Tôi gốc ở Long Xuyên. Ba tôi làm nghề thợ bạc ở nông thôn. Ông lại rất khéo tay và cần mẫn nên thu nhập cũng khá. Anh và chị tôi đều được đi học. Ba má tôi thường nói: đứa nào học được thì sẽ cho học tới nơi, tới chốn. Ba tôi còn hay nói vui: “Tao ngồi dù “đít chai như đít khỉ”, tao cũng ráng cho tụi bây ăn học”.
Cái nghề của ba tôi buộc ông phải ngồi từ sáng tới chiều, lúc thì thụt bễ, lúc thì giũa, mài, chạm trổ, luôn luôn phải tập trung cao độ. Nhà luôn có tiếng cười. Nhiều khách hàng thích ba tôi do cái khéo léo và cung cách quan hệ thoải mái của ông.
Cuộc sống đang vui thì tai họa xảy ra: một căn bệnh quái ác tấn công ba đó là bệnh trĩ: “Bệnh cứ phát triển ngày càng nặng, đến mức ba tôi không còn ngồi được nữa”. Ba tôi cố điều trị. Tiền bạc dành dụm được dần dần hết sạch. Đồ đạc trong nhà cứ lặng lẽ ra đi. Hai anh chị tôi lần lượt bỏ học, rồi lại phải phân tán, người về nội, người về ngoại. Tôi còn ở lại với ba má tôi, phải tiếp tục nhìn thấy cuộc sống tàn tạ của gia đình và sự hành hạ của căn bệnh đối với ba tôi. Mọi người đều chịu bó tay. Cây cột trụ của gia đình bị sụp đổ thì cả nhà làm sao đứng vững.
***
Trong lúc ba má tôi đang tuyệt vọng, thì một người hàng xóm là Tám Ngọt một nông dân nghèo đã đến nói với ba tôi một cách e dè:
- Bác Năm đã đi điều trị với nhiều ông thầy giỏi rồi mà không khỏi, cháu cũng lo cho bác quá. Cháu có việc này muốn thưa với bác, nếu bác thấy được thì cháu làm liền, nếu bác không chịu thì xin bác đừng rầy, mà xin bác hiểu cho là cháu chỉ muốn giúp bác thôi...
Ba tôi gặng hỏi mới biết: hồi lưu lạc từ Đồng Tháp xuống miền Tây, ba anh Tám có mang theo một bài thuốc trị bệnh trĩ, nhưng ông không làm thầy nên chưa chữa trị cho ai, không biết tác dụng của bài thuốc ra sao, chỉ biết đó là một bài thuốc gia truyền không được phổ biến cho ai ngoài những người trong thân tộc. Khi ông sắp qua đời, ông truyền bài thuốc cho anh Tám và cũng bắt anh thề là giữ bí mật. Anh Tám không làm thầy, nên chỉ giữ bài thuốc mà chưa hề dùng tới. Anh biết ba tôi bị bệnh trĩ mà không dám trị vì sợ không có hiệu quả, anh sẽ bị mang tiếng là “lang băm”. Cho tới khi thấy ba tôi hết cách, anh mới đề nghị dùng thử bài thuốc, chỉ cần tốn một cắc bạc (giá khoảng một phần ba giạ lúa lúc bấy giờ). Ba tôi bán tín, bán nghi, nhưng cũng muốn trị thử cầu may. Nếu không hết bệnh thì chỉ mất mười xu chớ có nhiều nhỏi gì. Khi đưa mấy liều thuốc cho ba tôi, anh Tám nói mãi:
- Nếu không hết bệnh, xin bác Năm đừng phiền vì tiền mất, tật mang...
- Thằng Tám mầy cứ yên tâm. Nếu không hết bệnh thì tao cũng cám ơn lòng tốt của mầy. Còn nếu hết bệnh thì tao coi mầy như... “ông Trời”!
Ba tôi uống hết mấy liều thuốc. Bệnh giảm trông thấy từng ngày. Mừng quá, ba tôi đưa tiền nhờ anh Tám làm thêm mấy liều nữa. Anh Tám nói không cần phải uống thêm, liều lượng như vậy là đã đủ. Một tháng sau, ba tôi khỏi hẳn. Ít lâu sau, tiếng phì phịch của ống bễ lại nổi lên trong nhà. Tiếng giũa, tiếng búa xen lẫn với tiếng cười. Hai anh chị tôi được gom về, lại đi học. Má tôi mừng lắm. Ông “Trời” của gia đình tôi vui mừng không kém ba tôi.
***
- Rồi sao nữa, anh Hai? Ông “Trời” Tám Ngọt sau đó làm gì? Làm thầy luôn chớ? Tôi hỏi.
Anh Hai Lành tiếp:
- Anh ấy lại làm ruộng, kiêm cái nghề... làm phước. Sau khi hết bệnh, ba tôi không biết lấy gì đền ơn anh, mà có đền ơn, anh cũng không nhận. Ba tôi bàn với anh nên trị bệnh cứu người, đừng để phí một toa thuốc quý. Anh Tám đồng ý. Ba tôi cung cấp tiền để anh mua dược liệu. Anh tranh thủ thời gian làm thuốc. Ai cần thì anh trị rất nhiệt tình, chỉ thu lại tiền dược liệu, không nhận một khoản thù lao nào cả.
Chẳng bao lâu, bệnh nhân tới ngày càng đông, nhà anh Tám không đủ chỗ tiếp. Khách phải đến tạm trú ở các nhà trong xóm. Xóm tôi trở nên tấp nập, đông vui. Người đến mặt mày nhăn nhó, khi về hớn hở tươi cười. Bà con muốn trả công để gia đình anh sống, nhưng anh dứt khoát từ chối. Gia đình tôi càng gắn bó với gia đình anh.
***
Ông bà mình có câu: “Hữu xạ tự nhiên hương”. Tiếng thơm từ việc làm của anh Tám Ngọt bay xa trong vùng. Nhiều thầy thuốc ở các tỉnh và ở Sài Gòn cũng tìm đến học để về làm phước. Anh Tám thông cảm là nhiều người cũng có cái “tâm” để làm những việc từ thiện, nhưng anh lo, nếu bài thuốc lọt vào tay của những kẻ xấu, thì họ sẽ “cắt cổ” bệnh nhân để làm giàu trên cái đau của người khác. Hơn nữa, anh còn có lời thề với ông bà. Có những thầy thuốc muốn “chuộc” toa thuốc bằng cái giá mà gia đình anh có thể sống thoải mái trong nhiều năm, nhưng họ chỉ nhận ở anh một câu rất chân thành:
- Tôi còn bị ràng buộc bởi một số việc trong quan hệ gia đình nên không thể đáp ứng được yêu cầu của các thầy. Nếu thấy ai có bệnh đúng với khả năng điều trị của tôi, xin các thầy giới thiệu họ tới đây, tôi sẽ giúp hết lòng. Xin các thầy hiểu cho!
Không mua chuộc được bằng tiền, một số thầy xoay qua dùng kế. Họ hợp tác với nhau bủa lưới điều tra, để xem ông “Trời” Tám Ngọt mua những món thuốc gì, ở đâu. Vậy là họ bám chặt theo anh, dò từng hành động của anh. Anh Tám xưa nay có vẻ lù khù, vậy mà anh đã nghĩ ra một trò chơi “cút-bắt”. Nay anh đi chợ này, ghé một số nơi, mua vài thứ “ba trợn”. Lúc khác, anh lại đi chợ khác, ghé vài ba chỗ, mua mấy món “trời ơi”. Anh làm ra vẻ bí mật lắm, nhìn trước, ngó sau, giấu giấu, giếm giếm... Nhưng anh mua gì, các thầy đều biết cả. Họ cũng mua những thứ ấy đem về pha chế, mong được một món thuốc “thần hiệu”. Nhưng các “thầy” đều bị mắc mưu ông “Trời” Tám Ngọt, vì các thứ họ mua không đúng thuốc. Cuối cùng, họ phải bỏ cuộc.
***
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi. Chánh quyền rất trọng anh Tám Ngọt và tạo điều kiện cho anh làm nghề thuốc. Kể ra, anh đã trị hết bệnh cho hàng ngàn người. Ba tôi thuyết phục anh Tám phổ biến bài thuốc cho cơ quan y tế để mở rộng sự điều trị cho bà con. Anh Tám lúc đầu còn e ngại, nhưng anh chuyển biến dần. Anh định chọn một ngày nào tốt làm một bữa cơm cúng ba anh và xin phép ông bà được bỏ một điều cấm trong gia đình, để làm một điều tốt cho xã hội theo sự chỉ đạo của chánh quyền cách mạng.
Nhưng ngày ấy chưa kịp đến. Một hôm, anh chở cả gia đình qua sông Hậu thăm bạn. Lúc này, địch đã trở lại và ta đã bắt đầu cuộc kháng chiến. Tàu chiến của địch thường chạy trên sông và nã súng vào các mục tiêu mà chúng khả nghi. Chiếc tam bản của anh Tám ra gần tới giữa sông thì tàu địch xuất hiện ở một khúc quanh. Bà con đánh mõ báo động. Nhưng không kịp nữa rồi. Từ xa, địch đã bắn súng máy vào chiếc tam bản. Tất cả đều chìm nghỉm.
Đợi cho tàu địch qua khỏi, bà con ta chèo ghe xuồng ra chỗ anh Tám bị nạn. Chị Tám và thằng Hiền đã trôi mất dạng. Anh Tám bị nhiều vết thương, còn bám được chiếc cột chèo. Vậy là người lo đi tìm xác chết, người lo đưa anh Tám còn đang thoi thóp về nhà tôi để cấp cứu.
Bỗng nhiên anh Tám mở mắt khi nghe tiếng ba tôi vừa về. Anh ra hiệu cho mọi người tránh ra và thều thào bảo ba tôi lấy giấy, viết. Ba tôi hiểu anh muốn nói về bài thuốc để ba tôi ghi. Ba tôi vội làm theo lời anh. Nhưng ông vừa đi được mấy bước thì nghe anh Tám ú ớ mấy tiếng rồi tắt thở. Ba tôi ôm anh Tám mà khóc thảm thiết. Mọi việc mai táng gia đình anh Tám, ba tôi lo như việc nhà mình. Gia đình tôi dành một khu đất sau nhà làm nơi an nghỉ của gia đình anh Tám. Một cái bàn thờ cũng được dựng lên trong nhà tôi với sự đồng ý của nội, ngoại tôi, vì anh Tám có còn ai đâu mà lo nhang khói!
***
...Hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ suốt 30 năm. Ba anh em chúng tôi vào bộ đội, mỗi người một nơi. Ngày toàn thắng 30 tháng 4 năm 1975, tôi về thì ba má tôi đã qua đời. Nhà cửa không còn, chỉ còn hai ngôi mộ nằm gần khu mộ của gia đình anh Tám. Do điều kiện công tác, tôi không về sống ở quê. Khi còn ở trong khu tập thể của quân đội, tôi mua hai cái tủ thờ loại tốt thờ gia đình tôi một bên và cả gia đình anh Tám một bên. Mỗi năm, tôi làm đám giỗ cùng ngày vì không nhớ ngày mất của từng người.
Anh Hai Lành kết thúc câu chuyện, nhưng trong tôi, nhiều tâm tư, tình cảm lại mới bắt đầu!