Theo điều tra của Viện Dinh dưỡng thuộc Bộ Y tế, năm 2024, TP Cần Thơ có tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi thừa cân, béo phì là 9,4%, tăng 0,5% so với năm 2023. Viện cũng dự báo, xu hướng này đang tiếp tục tăng.

Cân, đo cho trẻ tại trạm y tế.
Thừa cân là tình trạng cân nặng vượt quá số cân nên có so với chiều cao. Béo phì là tình trạng tích lũy mỡ thái quá và không bình thường một cách cục bộ hay toàn thể với mức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe. Béo phì khiến trẻ bị rối loạn chuyển hóa, rối loạn mỡ máu, đái tháo đường, gan nhiễm mỡ, sỏi mật; tăng huyết áp; cong xương đùi, thoái hóa khớp; khó thở khi gắng sức, ngừng thở khi ngủ; dễ mắc bệnh trầm cảm, tự ti và có nguy cơ béo phì khi trưởng thành. Thừa cân, béo phì còn làm tăng nguy cơ dậy thì sớm, đặc biệt là ở bé gái.
Về tâm lý, trẻ bị béo phì từ nhỏ thì tình trạng này thường kéo dài cho đến hết thời thanh thiếu niên, khiến trẻ kém về chức năng tâm lý xã hội, thường cảm thấy bức bối khó chịu, mỏi mệt, hay nhức đầu, tê buốt chân làm cho cuộc sống thiếu thoải mái. Trẻ béo phì cũng thường phản ứng chậm, kém tự tin hoặc gặp khó khăn khi giao tiếp và tham gia các hoạt động xã hội.
Hậu quả kinh tế trực tiếp là những chi phí dành cho việc chữa trị bệnh và các bệnh liên quan. Hậu quả gián tiếp là việc làm giảm năng lực học tập, năng lực cá nhân do những căn bệnh xuất phát từ béo phì, như: cao huyết áp, đái tháo đường khi còn nhỏ và sau này khi trưởng thành.
Theo Trung tâm Kiểm soát bệnh tật (CDC) TP Cần Thơ, phụ huynh nên đưa trẻ đến trạm y tế gần nhất để được cân đo theo dõi tình trạng dinh dưỡng của trẻ định kỳ. Trẻ dưới 2 tuổi (dưới 24 tháng): cân đo định kỳ ít nhất 3 tháng 1 lần. Trẻ 2 đến dưới 5 tuổi: cân đo định kỳ 6 tháng 1 lần. Cán bộ y tế sẽ đánh giá và hướng dẫn phụ huynh cách theo dõi biểu đồ tăng trưởng để phát hiện sớm trẻ bị thừa cân, béo phì và có giải pháp can thiệp kịp thời.
Nguyên nhân chính gây béo phì là năng lượng ăn vào cao hơn năng lượng tiêu hao và điều này xảy ra trong một thời gian khá dài. Chế độ ăn giàu chất béo hoặc năng lượng cao có liên quan chặt chẽ với sự gia tăng tỷ lệ béo phì. Lối sống thiếu vận động cũng là một trong những nguyên nhân gây béo phì.
Ngoài những yếu tố kể trên, béo phì còn do yếu tố di truyền. Theo Mayer (1995), nếu cả bố lẫn mẹ đều bị béo phì thì có 80% con họ sẽ bị béo phì. Nếu một trong hai người béo phì thì tỷ lệ này là 40%. Ngược lại, nếu cả bố và mẹ bình thường thì khả năng các con béo phì chỉ chiếm 7%. Bên cạnh đó còn có béo phì do gen (nhóm gen kích thích sự ngon miệng, nhóm gen liên quan đến tiêu hao năng lượng, nhóm điều hòa chuyển hóa, nhóm liên quan đến sự biệt hóa và phát triển tế bào mỡ...), béo phì/hội chứng Cushing do dùng kéo dài corticoid.
Theo Khoa Dinh dưỡng, CDC Cần Thơ, dự phòng thừa cân, béo phì ở trẻ dưới 5 tuổi bao gồm: dinh dưỡng hợp lý cho người mẹ trong thời kỳ mang thai, nuôi con bằng sữa mẹ (trẻ bú sữa mẹ ít có nguy cơ bị thừa cân, béo phì). Chế độ ăn cân đối, hợp lý, phối hợp nhiều loại thực phẩm, khuyến khích trẻ ăn nhiều rau, củ, quả… Tập thói quen đi ngủ sớm, ngủ đủ giấc, tăng cường hoạt động thể lực và theo dõi tăng trưởng của trẻ bằng biểu đồ tăng trưởng.
Với trẻ từ 6-18 tuổi, ở trường học, nhà trường tổ chức bữa ăn học đường đảm bảo dinh dưỡng hợp lý. Giáo dục truyền thông về dinh dưỡng cho học sinh có thể được lồng ghép trong giờ ăn tại trường, giờ sinh hoạt lớp, các buổi học kỹ năng. Các cơ sở giáo dục và ngành chức năng quản lý về tiêu chuẩn thực phẩm của căn tin trong trường học và quầy bán ở khu vực xung quanh trường học; tăng cường giáo dục thể chất... Về phía gia đình khuyến khích trẻ làm việc nhà phù hợp lứa tuổi để hạn chế thời gian ngồi xem tivi, máy tính, điện thoại...
Ths Nguyễn Thị Mỹ Loan, Phó trưởng Khoa Dinh dưỡng, CDC Cần Thơ, cho biết: Với trẻ đã thừa cân, béo phì, việc điều trị cần kiên trì. Việc xử trí thừa cân, béo phì cho trẻ em theo phác đồ chung, chú trọng giảm thu nạp năng lượng bằng chế độ ăn phù hợp và gia tăng tiêu hao năng lượng thông qua hoạt động thể lực. Cần xây dựng chế độ ăn của trẻ, nhưng không đặt mục tiêu giảm cân mà chỉ làm giảm tốc độ tăng cân. Trẻ vẫn phải có chế độ ăn phù hợp với nhu cầu phát triển, đảm bảo cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng cho sự lớn lên của trẻ, đặc biệt là các vi chất dinh dưỡng canxi, sắt, kẽm.
Bài, ảnh: H.HOA