01/10/2025 - 08:51

Đảm bảo an toàn sản xuất lúa đông xuân 2025-2026 

Đông xuân là vụ lúa quan trọng nhất của nông dân trồng lúa ĐBSCL. Dự kiến, vụ đông xuân 2025-2026, ĐBSCL xuống giống 1,49 triệu héc-ta, sản lượng 11,51 triệu tấn. Ngành Nông nghiệp khuyến cáo các địa phương, nông dân tuân thủ nguyên tắc sản xuất né rầy, dịch hại, phòng tránh hạn mặn, thiếu nước... nhằm đảm bảo hiệu quả sản xuất.

Nông dân xã Thạnh An sử dụng thiết bị bay điều khiển từ xa phun thuốc bảo vệ thực vật cho ruộng lúa.

Ứng phó với các rủi ro thời tiết

Ông Nguyễn Quốc Mạnh, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật - Bộ Nông nghiệp và Môi trường, cho biết: "Vụ lúa đông xuân 2025-2026, ĐBSCL bắt đầu xuống giống vào tháng 10-2025, nên tập trung đề phòng ảnh hưởng của hạn hán và xâm nhập mặn tại các tỉnh ven biển. Chú ý điều tiết thời vụ xuống giống phù hợp cho từng vùng sinh thái".

Trung tâm dự báo khí tượng thủy văn Quốc gia dự báo, xâm nhập mặn mùa khô năm 2025-2026 sẽ ở mức xấp xỉ trung bình nhiều năm, nhưng thấp hơn mùa khô năm 2024-2025. Còn theo Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, nguồn nước mùa khô năm 2025-2026 có khả năng thuận lợi hơn mùa khô năm 2024-2025.

Tuy nhiên, các địa phương vùng ĐBSCL đề phòng biến động bất thường do tác động của vận hành hồ chứa thủy điện ở thượng nguồn nên có kế hoạch chủ động sản xuất, bố trí mùa vụ, vận hành hệ thống công trình hợp lý, chuẩn bị các giải pháp ứng phó ngay từ đầu mùa khô, đặc biệt là tích trữ nước. Tăng cường công tác giám sát độ mặn, cập nhật các bản tin dự báo thường xuyên để điều chỉnh kế hoạch sản xuất phù hợp. Các địa phương cũng cần đề phòng tình trạng hạn hán, thiếu nước do lượng mưa thiếu hụt và nguồn nước từ thượng nguồn về thấp có thể làm mặn xâm nhập sớm…

Ước tính, diện tích lúa đông xuân 2025-2026 có khả năng chịu ảnh hưởng của hạn hán và xâm nhập mặn ở các khu vực ven biển, với khoảng 894.000ha, chiếm khoảng 60% diện tích trồng lúa toàn vùng, sản lượng ước đạt 6,464 triệu tấn (chiếm 60% sản lượng toàn vùng). Vùng phù sa ngọt ven sông (vùng giữa ĐBSCL, trong đó có TP Cần Thơ) ngoài những vùng có khả năng chịu ảnh hưởng trực tiếp nêu trên, xâm nhập mặn, khô hạn có khả năng gây ảnh hưởng cho các vùng cách biển từ 30-70km. Đây là vùng phù sa ngọt, nước ngọt đủ để sản xuất lúa đông xuân.

Tuy nhiên, nếu việc xâm nhập mặn sớm, sâu và thời gian kéo dài với nồng độ mặn cao thì một số vùng cặp theo sông Tiền, sông Hậu thuộc TP Cần Thơ, Vĩnh Long (Bến Tre cũ), Đồng Tháp (Tiền Giang cũ) có thể bị hạn mặn cục bộ cho các trà lúa và cho vườn cây ăn trái. Vùng không chịu ảnh hưởng xâm nhập mặn (vùng thượng), Đồng Tháp Mười và một phần Tứ giác Long Xuyên là vùng không thiếu nước ngọt nhưng bố trí thời vụ luân phiên để chia sẻ nước cho các vùng khô hạn ven biển...

Đảm bảo an toàn sản xuất

Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật khuyến cáo thời vụ xuống giống lúa đông xuân 2025-2026 cho toàn vùng từ ngày 10 đến 30-10-2025 cho những vùng có nguy cơ hạn cuối vụ (vùng ven biển của các tỉnh Tây Ninh, Vĩnh Long, Đồng Tháp, TP Cần Thơ, Cà Mau và An Giang), với khoảng 387.400ha, chiếm khoảng 26% diện tích vụ đông xuân. Đây là vùng có nguy cơ thiếu nước vào cuối vụ cần xuống giống sớm để né mặn.

Xuống giống đợt 1 từ ngày 1 đến 30-11, thời vụ chính cho cả 3 vùng thượng, vùng giữa và vùng ven biển với khoảng 685.400ha, chiếm khoảng 46% kế hoạch. Xuống giống đợt 2 từ ngày 1 đến 31-12, thời vụ chính cho cả 3 vùng thượng, vùng giữa và vùng ven biển, với khoảng 387.400ha, chiếm khoảng 26% kế hoạch. Một số vùng xuống giống đông xuân muộn, nhưng phải kết thúc xuống giống trước ngày 10-1-2026.

Ông Nguyễn Quốc Mạnh cho biết: "Bố trí thời vụ sản xuất lúa bám sát việc vận hành các hệ thống công trình thủy lợi. Đồng thời căn cứ theo bản đồ diện tích lúa có nguy cơ bị hạn hán, xâm nhập mặn đã được xây dựng trước đây để làm cơ sở cho bố trí mùa vụ sản xuất hợp lý. Việc bố trí thời vụ như trên và chủ động xuống giống sớm, linh hoạt cho những vùng ảnh hưởng của xâm nhập mặn hằng năm tại các tỉnh ven biển sẽ đảm bảo đủ lượng nước cho sản xuất lúa và sẽ hạn chế thấp nhất thiệt hại do hạn, mặn gây ra. Ngoài ra cũng đề phòng khô hạn cục bộ tại một số địa bàn thuộc vùng phù sa ngọt…".

Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cũng khuyến cáo, vụ đông xuân 2025-2026, ngành Nông nghiệp vùng ĐBSCL cần đẩy mạnh sử dụng giống lúa cấp xác nhận, chọn các giống đã được công nhận lưu hành, phù hợp với điều kiện sản xuất ở các tiểu vùng sinh thái. Vùng cách biển từ 20-30km, ưu tiên sử dụng các giống lúa chịu mặn và ngắn ngày, có thời gian sinh trưởng dưới 90 ngày; vùng cách biển từ 30-70km, ưu tiên sử dụng các giống lúa chất lượng cao, có thời gian sinh trưởng từ 90-105 ngày; vùng thượng ưu tiên sử dụng các giống lúa thơm, cao sản chất lượng cao, hạt tròn, nếp có thời gian sinh trưởng từ 90-105 ngày.

Cơ cấu nhóm giống lúa chính, giống chủ lực khả năng thích ứng rộng, diện tích ổn định, khả năng tiêu thụ nội địa và xuất khẩu tốt, như OM18, OM5451, OM4900, OM6976, Jasmine 85, Đài Thơm 8, OM7347, Nàng Hoa 9... chiếm tỷ lệ 60%. Nhóm giống lúa nếp và thơm đặc sản đang có tỷ lệ gia tăng trong cơ cấu giống chung như ST24, ST25, RVT, Nàng Hoa 9, nếp IR4625, ĐS1, nếp An Giang… chiếm 30%. Nhóm giống bổ sung thích hợp một số vùng sản xuất đặc thù, giống dùng cho chế biến, phù hợp tập quán canh tác, có thị trường hẹp như OM380, Cửu Long 555, OM2517, ML202... chiếm tỷ lệ 10%. Các giống chịu được độ mặn ở mức độ trung bình - khá (từ 2-3‰) được sử dụng phổ biến như OM6976, OM5451, OM9921, ST5... Các giống lúa chịu mặn ở mức độ khá hơn (3-4‰) như BL9, OM2517, OM9577, OM9955... nhưng không vượt được ngưỡng trên 4‰. Các địa phương cần phổ biến, hỗ trợ nông dân chọn giống sản xuất phù hợp điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng, xâm nhập mặn trên địa bàn.

Ông Nguyễn Quốc Mạnh nhấn mạnh: "Các địa phương ĐBSCL theo dõi chặt chẽ tình hình khí tượng thủy văn, diễn biến nguồn nước; chủ động xây dựng và thực hiện kế hoạch phòng chống hạn, xâm nhập mặn, ứng phó khi xảy ra thiếu nước trong mùa khô, thời gian sản xuất vụ đông xuân 2025-2026. Tăng cường quản lý nhà nước đối với vật tư đầu vào nông nghiệp, nhất là giống cây trồng, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, nhằm bảo đảm chất lượng, sản xuất hiệu quả vụ đông xuân. Đẩy mạnh xây dựng và phổ biến bản tin thời tiết nông vụ rộng rãi toàn vùng, giúp người dân chủ động sản xuất và thích ứng kịp thời với biến đổi khí hậu. Nạo vét các kênh mương, bờ vùng, bờ thửa, gia cố các bờ đập, tiến hành kiểm tra và sửa chữa, tu bổ các công trình thủy lợi. Tổ chức quản lý chặt chẽ nguồn nước, vận hành hợp lý các công trình, điều tiết nước theo từng giai đoạn phù hợp với yêu cầu cây trồng. Xây dựng, bổ sung, cập nhật phương án phòng chống hạn và dự phòng giống cho sản xuất khi có thiên tai...".

Bài, ảnh: HÀ VĂN

 

Chia sẻ bài viết