18/04/2009 - 21:31

Chùa Hiệp Thiên Cung - một địa điểm tín ngưỡng và văn hóa ở Cái Răng

Chùa Hiệp Thiên Cung được xây dựng trên diện tích 444,4m2 trong khung viên 600m2 tại trung tâm chợ Cái Răng - số 29, đường Hàm Nghi, phường Lê Bình, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ. Chùa thờ ông Quan Công, ông Phước Đức và bà Thiên Hậu – theo hệ phái Hoa tông. Do ông Lâm Quế Thạnh làm Hội trưởng Ban Quản trị chùa.

Dựa vào các bức hoành phi và những cổ vật còn lại, có thể ước tính chùa Hiệp Thiên Cung - Cái Răng có trước năm 1856, cách nay hơn 153 năm.

Một di tích lịch sử có ảnh hưởng ở địa phương

Khoảng đầu thế kỷ XIX - nhiều người Hoa từ Trung Quốc di dân sang Việt Nam để kiếm sống, trong số đó có một nhóm người gồm: Triều Châu, Quảng Đông, Phúc Kiến, Hải Nam và Sùng Chính (Hẹ) về làm ăn sinh sống tại vùng đất Cái Răng thuộc xã Thường Thạnh, huyện Phong Phú, phủ Tuy Biên. Sau đó đổi thành hạt Sa Đét, rồi tổng Định Bảo hạt Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ, rồi đổi Phong Dinh, Cần Thơ, Hậu Giang và nay là thành phố Cần Thơ.

Toàn cảnh chùa Hiệp Thiên Cung. 

Bà con người Hoa ban đầu làm nghề nông và buôn bán nông sản, tạp hóa. Có thể nói, thời điểm này giao thông chủ yếu bằng đường thủy, nên chợ Cái Răng (chợ cặp ven sông Cần Thơ) là trung tâm của vùng, là đầu mối giao thương giữa các tỉnh trong khu vực và Sài Gòn – Gia Định.

Để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng “Sanh Ý Hưng Long – Hạp Gia Bình An”, cộng đồng người Hoa lập nên ngôi miếu nhỏ thờ Quan Thánh Đế tại trung tâm chợ Cái Răng để phù hộ cho bà con sản xuất được mùa, mua mau bán đắt, gia đạo bình an. Đồng thời dùng làm nơi sinh hoạt, hội họp, tương thân tương ái, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau. Năm 1856, bà con tu sửa, xây mới mở rộng hình thành ngôi miếu lớn hơn và đặt tên “Quan Công Miếu”. Đến năm 1904, trùng tu lại, đưa 3 vị Đức Thánh vào thờ: ông Quan Công, ông Phước Đức, bà Thiên Hậu và đổi tên thành “Hiệp Thiên Cung”, còn có tên gọi khác là Chùa Ông.

Năm 1945, thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta lần thứ hai. Chiến tranh diễn ra ác liệt. Từ năm 1946, nhiều bà con người Hoa khu vực này đều phải di tản, ngôi chùa bị bỏ hoang. Năm 1954, hòa bình lập lại bà con người Hoa trở về và cùng nhau tu tạo, sơn sửa lại. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, năm 1989, Ban quản trị chùa Hiệp Thiên Cung cho trùng tu toàn bộ ngôi Chùa cho đến ngày nay.

Ban đầu, Chùa có Ban quản lý gồm những người đứng đầu 5 Bang hội của người Hoa. Đó là những người có uy tín, có khả năng tài chính. Họ luân phiên nhau làm Trưởng ban điều hành hằng năm - phụ trách quản lý về tài chính, và duy trì các tổ chức lễ hội của Chùa. Khoảng năm 1856, Ban trực sự gồm có các ông : Ứng Trường Xuân, Trương Cẩm Hưng, Trịnh Tam Lý, Lê Tấn Cường.

Hiện nay, tại Cái Răng không còn đủ 5 Bang hội như xưa. Bà con chọn những người có uy tín đề cử và bầu vào Ban quản trị Chùa gồm 15 người - 1 Hội trưởng, 2 phó Hội trưởng, 1 chánh văn phòng kiêm tài chính, 2 thư ký (1 Việt, 1 Hoa) và 1 người phụ trách tổng vụ điều hành chung các hoạt động, lễ hội của Chùa, những người còn lại đều là ủy viên của Ban. Nhiệm kỳ Ban quản trị là 5 năm.

Những nét kiến trúc - điêu khắc độc đáo

Chùa được xây dựng theo hình chữ “Quốc” với các dãy nhà khép kín vuông góc với nhau, ở giữa chùa một khoảng không gian trống gọi là sân thiên tỉnh, trục giữa được kết cấu tính từ ngoài vào gồm 7 gian. Nhìn toàn cảnh từ bên ngoài ta thấy sân chùa có trang thờ ông Thiên với cây cột cao khoảng 10 mét có từ 100 năm nay, mặt tiền có một dãy nhà ngang tạo thành cổng chính và 2 cổng phụ hai bên, trên nóc chùa chạm cẩn hình lưỡng Thanh Long Tranh Châu; 2 dãy nhà dọc, nằm bên trái là đông lang, nằm bên phải là tây lang dùng được chia ra làm 6 phòng dùng làm nơi tiếp khách và nơi ở của người quản lý trông coi chùa.

Bố trí các gian trong chùa như sau: Gian thứ 1 – để chuông và trống, gian thứ 2 – là Thiên đỉnh (giếng trời), gian thứ 3 và 4 – dùng làm nơi dâng hương cử hành lễ tế, gian thứ 5 và 6 – đặt bàn cúng, lư hương và trưng bày 8 bộ thanh long đao cổ, gian thứ 7 – là nơi đặt ngai thờ và tượng thờ các vị Thần Thánh (những tượng thờ đều được thỉnh từ Trung Quốc). Giữa trung tâm là nơi chính điện.

Kết cấu hiện nay có một số cột làm bằng gỗ, một số cột làm bằng đá xanh, tường gạch, mái lợp ngói ống âm dương, kiểu mái đơn giản, có những đường con lươn dằn mái ngói, đầu con lươn được cách điệu thành những đầu rồng; bên trong các thanh gỗ dùng làm xuyên, mỗi đầu cây xuyên cũng được chạm trổ đầu rồng; trên xuyên vách của gian thứ 3 trước chánh điện, có chạm trổ hình Kỳ Lân trang trí mỗi bên 2 con thật tinh xảo. Ngoài mặt tiền chùa, phía trên cổng chính treo khối tượng thuyền Bác Nhã.

Vách mặt tiền, phía trên vẽ hình bát tiên; bên dưới vẽ minh họa những hình ảnh của 3 anh em Lưu, Quang, Trương kết nghĩa vườn đào đến Quan Vũ được phong Thánh. Bên trên phía trong cửa chính treo một bảng vàng ghi danh sách các thiện tín góp tiền mua đất kiến miếu, chữ viết bằng mực vàng ròng. Bảng này được làm từ năm 1856.

Đặc biệt, trong chùa còn lưu giữ 12 bức hoành phi được chạm khắc 2,3 lớp rất tinh xảo. Một số bức tiêu biểu như : Bức treo trước mặt chính điện là “Nghĩa Bỉnh Càn Khôn” – ý nghĩa, nêu chí nghĩa dũng để lại trần gian, được làm từ năm 1885; Bức thứ 2, treo phía trên điện thờ Quan Thánh Đế Quân “Khí Tráng Sơn Hà” – ý nghĩa, nói lên khí thế anh hùng vang vội cả núi sông. Bức này làm từ năm 1973; Bức thứ 3, “Nghĩa Quan Thiên Thu” – ý nghĩa, nói lên khí thế để lại ngàn thu. Làm từ năm 1886; Bức thứ 4, “Thiên Cổ Nhất Nhân” – ý nghĩa, nêu từ ngàn xưa chỉ có một người. Bức này làm từ năm 1886.

Bày trí thờ cúng - và những ngày lễ hội trong năm

Ngay trung tâm chánh điện, trục giữa đặt một bàn thờ chính có bộ lư đồng lớn ở giữa gian thứ 5, cũng là nơi dùng để bày lễ vật cúng.

Bên trong đặt một bàn thờ có hương án lớn ở giữa gian thứ 6 và phía trong gian thứ 7 là ngai thờ “Tam vị Thánh Đế”.

Chính giữa thờ Quan Công “Quan Thánh Đế Quân” (“Ông”), bên trái của “Ông” thờ Quan Bình, bên phải của “Ông” thờ Châu Xương; Gian bên phải đặt ngai thờ “Phước Đức Tài Thần” ; Gian bên trái đặt ngai thờ “Thiên Hậu Thánh Mẫu” !

Hiện nay chùa còn lưu giữ và tổ chức các ngày lễ hội chính như sau:

1. Lễ đón Giao thừa. Ý nghĩa - tiễn đưa năm cũ, chào đón năm mới. Cầu “mưa thuận, gió hòa”, “quốc thái dân an”, “chánh thần phò hộ ban phước lành...”.

Lễ đón giao thừa chỉ có phần lễ. Thời gian tổ chức bắt đầu từ 0 giờ ngày Mồng một Tết. Nghi lễ gồm: dâng sớ, đốt nhang, lên đèn; đánh 3 hồi chuông trống để đón mừng giao thừa. Lễ vật chính là hoa tươi - để cho bà con đến chiêm bái và hái lộc.

2. Lễ họp mặt đầu năm. Nội dung tập họp đông đủ bà con người Hoa trong tất cả các Ban đến Chùa cùng vui Tết đón Xuân, chúc Thọ - chúc Tài lộc lẫn nhau và làm lễ cúng viếng “Ông”. Thời gian, từ 8 giờ sáng mồng 2 Tết, nghi lễ đơn giản hơn lễ đón giao thừa, chỉ dâng nhang, lên đèn. Sau đó, mọi người cùng nhau ăn bánh, kẹo, uống trà, cùng chúc mừng năm mới. Ban quản trị chùa trao tặng cho mọi người có mặt bao “lì xì” mừng tuổi.

3. Lễ Nguyên tiêu hay còn gọi là tết Thượng Nguyên, được coi là ngày lễ thiêng liêng nhất đầu năm mới. Ý nghĩa, sau tết Nguyên đán, để bắt đầu vào một năm mới cầu cho gia đạo bình an, làm ăn phát đạt và cầu xin mọi điều tốt lành. Vì vậy, việc tổ chức ngày lễ này gồm hai phần Lễ và Hội. Thời gian tổ chức bắt từ sáng ngày Rằm cho đến hết đêm Rằm tháng Giêng.

Phần Lễ, đúng 9 giờ sáng ngày rằm, toàn Ban quản trị chùa tiến hành dâng sớ, thắp nhang, đèn cúng khai lễ. Sau đó bà con dân phố và trong khu vực ăn mặc đẹp đến thắp nhang viếng “Ông” trong suốt thời gian diễn ra lễ hội.

Phần Hội, trang trí nhiều hoa và treo nhiều loại lồng đèn trong và ngoài chùa. Theo tập tục ngày này hằng năm, Chùa tổ chức cho bà con vay “tiền” của “Ông” (vay phú) để làm vốn, làm giàu; vay “đại kiết” (trái quýt) cầu kiết tường; vay “kim huê” (mão giấy) cầu công danh; vay “nhang” cầu sung túc... Hiện nay chỉ còn lại tục cho vay “tiền”. Thời gian bắt đầu từ 7 giờ tối đêm Rằm tháng Giêng. Sau việc phát vay tiền, tiếp tục tổ chức đấu “Thánh đăng” (đèn lồng) – đấu Thánh đăng hình thức giống như đấu giá, tiền đấu được đem bổ sung vào công quỹ của chùa.

Khoảng 9 giờ tối - lễ ngắm trăng, chiêm ngưỡng lồng đèn được tiến hành bằng các tổ chức hội thi đoán câu đố vui và giải câu đối. Các câu đố, câu đối được treo trên các lồng đèn trước sân chùa. Ai bắt và trả lời được câu đố hoặc giải được câu đối thì sẽ được quà thưởng.

4. Lễ vía bà Thiên Hậu Thánh Mẫu. Thời gian tổ chức trong ngày 23 tháng 3 âm lịch. Đây cũng là ngày lễ lớn của chùa, tuy nhiên chỉ tổ chức phần nghi lễ như sau: Đúng 9 giờ sáng tiến hành dâng sớ, dâng nhang, lên đèn, đánh 3 hồi trống chuông cúng khai lễ. Vật lễ cúng (không thể thiếu) gồm: heo quay, bánh bao, bánh hồng đào, mâm ngũ quả, hoa tươi, trà, rượu, nhang, đèn cầy.

5. Lễ vía “Ông”. Đây là ngày lễ lớn nhất trong năm. Thời gian tổ chức lễ hội 3 ngày (trước đây 5 ngày) bắt đầu từ ngày 12 đến 14 tháng 5 âm lịch, trong đó ngày 13 là ngày lễ vía chính – chia thành hai phần Lễ và Hội.

Phần lễ, đúng 9 giờ sáng tiến hành dâng sớ, dâng nhang, lên đèn, đánh 3 hồi trống chuông cúng khai lễ. Tiếp theo, mở nhạc hòa tấu (trước đây mời cả một đoàn nhạc công tấu nhạc) để kết thúc phần nghi lễ. Lễ vật cúng gồm: heo quay (nguyên con), bánh bao (không nhân), bánh hồng đào (trường thọ), mâm quýt (đại kiết), hoa tươi... được bày trang trọng trên bàn ở giữa gian thứ 5. Điểm đặc biệt lưu ý, trong ngày lễ này tuyệt đối không được cúng thịt gà, thịt bò.

Phần hội, chùa rước đoàn hát Triều Châu (hát Tiều) về biểu diễn tại chùa. Đoàn hát hát cả ngày lẫn đêm cúng “Ông” và cho bà con trong khu phố xem. Đồng thời tạo bầu không khí vui tươi phấn khởi trong ngày lễ vía. Buổi hát bắt đầu từ sáng ngày 12 đến hết ngày 14 tháng 5.

6. Lễ Vu lan, tổ chức vào ngày Rằm tháng 7 âm lịch. Thời gian khai lễ bắt đầu từ 7 giờ tối ngày 16 cho đến chiều ngày 17 tháng 7 âm lịch. Cũng chỉ tổ chức phần lễ và hình thức khai lễ cũng giống như những ngày lễ kể trên.

Trước cửa chùa dựng cặp phướn (một đỏ, một xanh) dài 3 mét, đứng ngoài nhìn vào chùa phướn đỏ nằm bên phải, phướn xanh nằm bên trái. Bên trong chùa, lập thêm nhiều bàn thờ: bàn thờ Phật, bàn thờ ông Tiêu, ông Hộ, thờ quá cố tiền nhân – bá tánh, thờ chiến sĩ trận vong, thờ thập phương cô hồn.

Đúng 7 giờ tối ngày 16 âm lịch tiến hành khai lễ. Sau phần dâng sớ, dâng nhang đèn và 3 hồi trống chuông, mời Pháp sư tụng kinh cầu siêu, cầu an cho đến 10 giờ kết thúc. Đúng 9 giờ sáng ngày 17 cử hành lễ chính. Pháp sư tiến hành tụng kinh lần thứ 2 cho đến giờ Ngọ - và làm lễ phóng tiêu, kết thúc phần kinh tụng. Sau lễ phóng tiêu, Ban quản trị chùa cho tổ chức “thí giàn” trước sân chùa, kết thúc buổi lễ.

7. Lễ Trùng quang, tổ chức vào ngày mồng 10 tháng 11 âm lịch. Thời gian tổ chức bắt đầu từ 9 giờ sáng và kết vào buổi trưa cùng ngày. Lễ vật cúng cũng giống ngày lễ vía.

8. Lễ cúng bình yên, nội dung là để đáp tạ thần ân đã phò giúp một năm làm ăn phát đạt. Thời gian không ấn định, nhưng phải tổ chức trước ngày 23 tháng chạp âm lịch. Chỉ tổ chức phần lễ và nghi lễ, vật cúng cũng giống các ngày lễ khác trong năm, kết thúc buổi lễ có mở thêm nhạc hòa tấu. Thời gian bắt đầu cũng từ 9 giờ sáng và kết thúc vào buổi trưa cùng ngày.

* * *

Hiện nay, chùa Hiệp Thiên Cung – Cái Răng là một trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng và văn hóa của nhân dân địa phương, là một điểm tựa tinh thần, nơi hội họp sinh hoạt tương thân tương ái giúp đỡ lẫn nhau và là nơi vui chơi giải trí... Bà con trong khu vực không phân biệt người Hoa hay người Việt đều đến cúng viếng chùa, đóng góp nhiều tiền của để góp phần tổ chức các hoạt động lễ hội trong năm và tu bổ sơn sửa lại chùa.

Ban quản trị chùa luôn cố gắng duy trì tổ chức đầy đủ các ngày lễ hội theo đúng phong tục tập quán từ trước, nhằm đảm bảo đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt văn hóa và tín ngưỡng của nhân dân, vận động nhiều mạnh thường quân đóng góp nhiều tiền của gây quỹ chùa, sử dụng quỹ đúng mục đích như: đóng góp để xây nhà tình thương, làm cầu sửa đường, cứu trợ thiên tai, lũ lụt...; tổ chức khám sức khỏe, cấp thuốc miễn phí, cho gạo người nghèo v.v... Số tiền làm từ thiện của chùa Hiệp Thiên Cung hằng năm lên đến hơn 200 triệu đồng.

Chùa Hiệp Thiên Cung – Cái Răng còn là một địa chỉ quan trọng đối với những người làm công tác nghiên cứu văn hóa lịch sử, là một địa điểm tham quan du lịch hấp dẫn đối với du khách trong và ngoài nước - xứng đáng được công nhận là một di tích lịch sử - văn hóa.

Bài, ảnh: TRẦN QUỐC LƯƠNG


(1) Theo cuốn “Nghiên cứu Địa bạ Triều Nguyễn – An Giang” của Nguyễn Đình Đầu.

Chia sẻ bài viết