12/05/2020 - 08:43

Các trường hợp không được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) là một trong những giấy tờ pháp lý quan trọng nhất chứng minh quyền sử dụng bất động sản của cá nhân, tổ chức. Theo quy định tại Điều 19, Nghị định 43/2014/NĐ-CP, có 7 trường hợp người sử dụng đất  không được cấp GCNQSDĐ. Trong đó, có trường hợp đất đang sử dụng là đất công.

Phần đất ông T. đang canh tác, không tranh chấp, nhưng thuộc một trong các trường hợp không được cấp GCNQSDĐ.

Ông Nguyễn Văn T., ở xã Đông Bình, huyện Thới Lai, TP Cần Thơ, trực tiếp sử dụng hơn 4 công đất ruộng. Nhiều năm nay, ông T. liên hệ chính quyền và ngành chức năng địa phương để đăng ký cấp GCNQSDĐ nhưng không được xem xét, giải quyết. Ông T. rất thắc mắc vì phần đất này, gia đình ông trực tiếp sử dụng và không ai tranh chấp. Trả lời thắc mắc này, theo UBND xã Đông Bình, phần đất của ông B. đang sử dụng thuộc đất công.

Trường hợp của hộ bà Nguyễn Thị L., ở phường Thới An, quận Ô Môn, cũng tương tự. Nhiều năm này, gia đình bà L. trực tiếp sử dụng phần đất nằm cặp sân bóng của phường. Gia đình bà đã liên hệ chính quyền và ngành chức năng địa phương để đăng ký cấp GCNQSDĐ nhưng chưa được xem xét, giải quyết vì theo sổ mục kê, phần đất mà gia đình bà đang sử dụng thuộc đất công.

Trường hợp như ông T. và bà L. không hiếm. Theo quy định pháp luật, những trường hợp này không được xem xét, giải quyết việc cấp GCNQSDĐ vì Điều 19, Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định các trường hợp không cấp GCNQSDĐ, gồm: 

+ Tổ chức, cộng đồng dân cư được Nhà nước giao đất để quản lý thuộc các trường hợp quy định tại Điều 8 của Luật Đất đai.

+ Người đang quản lý, sử dụng đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn.

+ Người thuê, thuê lại đất của người sử dụng đất, trừ trường hợp thuê, thuê lại đất của nhà đầu tư xây dựng, kinh doanh kết cấu hạ tầng trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế.

+ Người nhận khoán đất trong các nông trường, lâm trường, doanh nghiệp nông, lâm nghiệp, ban quản lý rừng phòng hộ, ban quản lý rừng đặc dụng...

Cụ thể, đối với tổ chức, cộng đồng dân cư được Nhà nước giao đất để quản lý thuộc các trường hợp quy định tại Điều 8 của Luật Đất đai, gồm:

+ Tổ chức kinh tế được giao quản lý diện tích đất để thực hiện dự án đầu tư theo hình thức xây dựng - chuyển giao (BT) và các hình thức khác theo quy định của pháp luật về đầu tư;

+ Tổ chức được giao quản lý công trình công cộng, gồm công trình đường giao thông, cầu, cống, vỉa hè, hệ thống cấp nước, hệ thống thoát nước, hệ thống công trình thủy lợi, đê, đập; quảng trường, tượng đài, bia tưởng niệm; tổ chức được giao quản lý đất có mặt nước của các sông và đất có mặt nước chuyên dụng và tổ chức được giao quản lý quỹ đất đã thu hồi theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Thời gian qua, nhiều trường hợp đăng ký quyền sử dụng đất nhưng không được xem xét, giải quyết, vì thuộc trường hợp “người đang quản lý, sử dụng đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn”. Ông Lê Văn Quang, Giám đốc chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Thới Lai, cho biết: Theo Luật Đất đai năm 2013, trường hợp đất trích từ quỹ nông nghiệp của xã từ sau năm 1993 thì không được cấp GCNQSDĐ. Chỉ trừ trường hợp đất được trích từ quỹ nông nghiệp của xã trước ngày 15-10-1993, từ đó đến nay xã không thu hồi, cá nhân/ hộ gia đình sử dụng đất ổn định và không tranh chấp thì đất mới có thể được cấp GCNQSDĐ. Khi đó, người sử dụng đất cần phải có một trong các giấy tờ tại Điều 100 Luật Đất đai năm 2013 để yêu cầu cấp GCNQSDĐ...

Bài, ảnh: Chấn Hưng

Chia sẻ bài viết