01/05/2021 - 17:26

Bụng vàng gia tộc 

Truyện ngắn: LÊ QUANG TRẠNG

Chuyên viết những phóng sự miền quê, tôi thường lang thang rày đây mai đó. Nhất là những ngày “bão động” của gia đình, tôi vác ba lô lên chiếc xe máy chạy về miền Tây. Nơi đó là quê hương thứ hai của tôi. Vừa đi tôi vừa ước ao ông cha tôi không phải dang lưng trên đồng ruộng bao năm, để lại ba mươi lăm công ruộng cho ba đứa con, mà hai công lẻ chẳng cách nào chia tròn cho được.

Mẹ vẫn thường hay gọi điện kêu “Con cứ về, muốn lấy bao nhiêu thì lấy, mẹ sẽ làm di chúc cho. Ai làm gì được mẹ”. Nhưng tôi đã khước từ, chỉ xin giữ lại phần đất có ngôi từ đường và gò đất có mấy ngôi mộ ngoài bờ ruộng. Chuyện suôn sẻ, nếu anh Hai không lâm vào cảnh nghèo túng sau đợt chia đất và bán sạch. Anh Ba dù cũng bán hết đất được chia, nhưng anh dùng tiền để chuyển lên tỉnh làm ăn và đầu tư cho con cái học hành, coi như không còn dính dấp tranh chấp gì mảnh đất quê với anh Hai. Có lẽ vì quá nghèo túng, một hôm anh Hai nói nằm chiêm bao thấy ông cố về mách bảo rằng năm xưa ông có con trâu bạc đẻ ra vàng, hãy tìm con trâu đó, ắt sẽ làm giàu mà chuộc lại đất đai.

Anh Hai đem câu chuyện bàn tán với “bằng hữu”, mọi người thêm thắt từ truyền thuyết dân gian ra thành câu chuyện rằng, chắc trên gò đất ngoài ruộng, ông cố tôi có chôn giấu con trâu bạc ngậm vàng. Vậy nên một đứa hiểu chuyện như thằng Út mới một mực giành cho bằng được mới thôi.

Tôi cười ra nước mắt. Ðến gò đất với những ngôi mộ cả làng ai cũng biết, mà cũng hóa ra vàng thì còn gì nói nữa. Tôi buông xuôi, bỏ đi và tiếp tục những hành trình của mình. Lặng đi một thời gian, mẹ gọi khóc rằng anh Hai đòi đào chỗ gò đất có những phần mộ để tìm vàng. Dạo đó đang Tết đến, tôi thấy lòng mình như lửa đốt phừng phừng. Lên chuyến xe đò ngược về quê, mà như thấy hai trăm cây số dài vạn dặm.

Hồi còn sinh tiền, cha tôi thường nói, những tằng khạo giữ trâu cho nhà mình, họ không đất đai, khi chết cho nương tựa gò đất trâu nằm, cứ để họ yên nghỉ mãi mãi trên gò đất đó. Tôi nghe lời cha dạy, thấy sự đời rất đỗi công minh. Suốt đời dang lưng với trâu trên đồng ruộng, chỉ mong khi chết có đất gửi thân thì mấy ngôi mộ ấy cũng là điều an ủi với họ và với cả nhà mình. Có lần tôi hỏi cha, họ tên tuổi là gì, cúng giỗ ra sao. Cha không nhớ được, vì tính ra tuổi đời của họ cũng đáng tuổi ông nội của cha, tức là từ rất xa xưa, những ngôi mộ đã có ở nơi này. Có thể đó là những người đầu tiên của lớp cư dân đi mở cõi.

Ðời người cũng lắm lúc thăng trầm, anh Hai không chăm làm ruộng, suốt ngày nuôi mấy con gà đi đá khắp xóm dưới làng trên. Chị Hai thì nhu hiền chỉ biết an phận nghe lời chồng. Ðất đai phân chia chưa lâu thì anh Hai đã bán đứt, nay quay sang nhìn gò đất mà trước đó anh không ngó ngàng, để nuôi hy vọng có chút đỉnh vàng. Anh Hai nói “Vàng tây cũng được”. Tôi nhìn anh hạnh phúc ngập tràn khi nghĩ về đống vàng, trong khi cơn gió chướng về, anh ho khù khụ mà vẫn không thôi huyên thuyên về câu chuyện con trâu trắng nuốt một bụng vàng, ông bà chôn đi để làm phong thủy.

Mẹ không thôi ủ rủ, những lá trầu mẹ không ăn nữa, cũng héo úa ở trong ô. Tôi ngồi bên mẹ, không biết phải nói thế nào. Mẹ không tin, nhưng có lúc cũng phải tin, câu chuyện con trâu ngậm vàng của anh Hai làm mẹ đau lòng hơn là xót của. Tôi biết bây giờ thì mẹ đã tin rằng năm xửa năm xưa, để trấn ải xóm Lung Trâu, ông bà cố đã chôn sống một con trâu trắng, sau khi cho nó nuốt trợn trắng một bụng vàng. Nhưng mẹ lo âu, rồi đây sẽ có xào xáo khi bụng vàng được khai quật.

Anh Hai muốn giữ hòa khí lúc này, để dễ bề xoay trở nên thỏa thuận với tôi rằng, để anh thuê thợ đến khám địa trắc, nếu thực sự dưới đất có vàng thì xin đào lên, còn nếu không thì giữ yên. Tôi buồn không cách nào tả nổi, gật đầu trong niềm tin mù quáng và tuyệt vọng của người anh ruột thịt.

Ngày đưa ông Táo về trời, tôi lạy chưa đủ lễ thì chị dâu réo “Ra gò mà coi người ta đo, để thôi chú nói vợ chồng tôi nói dối”. Tôi và mẹ cùng ra xem, những người thợ anh Hai thuê từ xa đến, với máy móc đồ sộ, đo đi tính lại chi ly, rồi nói rằng bên dưới có kim loại nặng, không rõ là gì.

Anh Hai mừng ra mặt như đã đào được vàng trong tay: “Anh nói có sai đâu, bên dưới đó có cả con trâu vàng. Ông bà mình nhìn sâu trông rộng, chôn vàng theo trâu để cho đất giữ. Thổ sinh Kim, ắt vàng đã sinh sôi dát đầy con trâu trắng”.

Tôi dẫu không tin nhưng tôi biết lời mình là vô vọng. Anh Hai tiếp tục gieo hòa khí với tôi: “Út cứ cho anh đào, nếu không có vàng, anh sẽ trả đất vẹn nguyên và ký giấy cho Út ra sổ đỏ”.

Hôm ấy đang mùa xuân nhưng mưa lại rơi, mẹ ngó ra sau gò mả, anh tôi đang dựng lều để giữ vàng. Tôi chào mẹ để đi, mẹ nắm níu: “Sao con không ở nhà ăn Tết?”. Lần đầu tiên tôi nói dối mẹ: “Tết năm nay con về sớm với mẹ, nhưng phải hoàn thành chuyến công tác này, mẹ đừng buồn, rồi xong việc con sẽ đón mẹ lên ở với con, cũng gần vợ chồng anh Ba...”. Mẹ nhìn tôi, bà thẳng thừng trả lời mà sao đôi mắt bà ngấn lệ: “Mẹ ở đây, có chết mẹ cũng ở đây, mẹ không rời xa mồ mả cha con và ông bà được”.

Chuyến đi của tôi lần này vẫn còn lang bạt ở xóm bờ làng bãi, vô định không biết về đâu, cứ đều đặn có bài cho tòa soạn là tôi đủ miếng ăn để lang thang. Chưa đầy tuần sau ngày tôi rời đi, mẹ gọi, giọng mẹ quánh đặc như ngậm đầy những đau đớn của tuổi già mà không cách nào có thể giúp bà thốt ra cho được. Rất lâu sau những nghẹn ngào của mẹ và lời hỏi thăm liên tục của tôi. Mẹ nói anh Hai con bị ông bà quở, bỗng dưng tím tái không biết bị chi, chở lên bệnh viện tỉnh rồi. Tôi tức tốc thu dọn hành lý để về, thì chị Hai gọi. Chị kể ngọn ngành.

Sau mấy hôm đào khắp nơi, chẳng tìm thấy gì. Ðến hừng đông ngày cuối, còn một gò to nhất, ai cũng quả quyết rằng đó là nơi nằm của con trâu có cái bụng vàng. Ðất rắn như đá, đào suốt cả ngày mới đến nơi. Nhưng hỡi ơi, chỗ đó không hề có vàng bạc châu báu gì, mà chỉ là một đoạn đất sét cứng đanh, hắt lên những luồng khí. Anh Hai là người đầu tiên khui ra luồng khí và đổ gục. Trên đường chở anh đi cấp cứu, anh nói nhảm rằng ông bà mình xưa ăn nên làm ra cũng nhờ con trâu bạc ngậm vàng. Giờ phải tìm cho được con trâu bạc ngậm vàng để anh chuộc lại đất đai thì anh mới nhắm mắt xuôi tay.

Những ngày đi lang thang, tôi cũng có nghe chuyện con trâu bạc ở xóm Lung Trâu, nhưng nó khác với những gì anh Hai tôi tưởng tượng. Thời đó ở cả miền đồng đất này, chỉ có đúng một cặp trâu bạc. Mùa Tết năm Sửu nọ, có hai ông điền chủ, chủ của cặp trâu bạc thách đố với nhau, đem con cái to khỏe chém với con đực mới mọc sừng. Không hiểu sau khi hai con ra đấu thì con cái lườm lườm rồi bỏ chạy. Con đực dí theo đâm vào bụng con cái. Trâu cái ống lên rồi chạy cho đến khi nó thoát ra được khỏi cái vòng vôi, thì cả hai mới đứng yên. Ông điền chủ có trâu đực thắng, ôm hết gia sản ông chủ trâu cái mang về làm cho gia tộc thịnh vượng. Còn ông chủ trâu cái thì đem con trâu lang bạt kỳ hồ, rồi trâu lại đẻ trâu, người nối người thành xóm Lung Trâu.

Tôi tìm đến nhà của người giữ cặp sừng con trâu bạc mẹ năm xưa. Nhiều đời họ vẫn sống bằng nghề nhân giống trâu. Họ không nhớ nhiều về câu chuyện cuộc chọi trâu hồi xa xưa. Chỉ nhớ những điều ông bà dạy về nhân nghĩa ở đời, về kinh nghiệm nuôi trâu bằng những cây cỏ, thuốc nam quanh vườn nhà sao cho béo tốt.

Không mấy đắn đo, có lẽ do tôi đã liệu định sẵn ở trong lòng. Trả tiền cho người chủ xong, tôi gọi xe đến để chở cặp trâu mình vừa mới tậu về cho anh Hai yên dạ. Bốc băng thu âm những người xóm Lung Trâu nói về cách thức chăm sóc thuần dưỡng trâu bạc, tôi bỗng nghe lòng mình thanh thản lạ thường. Có thể tôi sẽ thành công thuyết phục anh Hai tin con trâu có thể đẻ ra vàng là có thật, nhưng tin bằng một câu chuyện khác, rằng ở xóm Lung Trâu, có con trâu bạc truyền kiếp sinh sôi, mỗi năm kéo cộ tiền công tính ra cũng mấy chỉ vàng...

Chia sẻ bài viết