26/08/2025 - 09:40

Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945: Khẳng định tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh (*) 

Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 không chỉ là một văn kiện pháp lý tuyên bố chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật, xác lập chủ quyền lãnh thổ và quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam, mà còn là bản tuyên ngôn tư tưởng, khẳng định chân lý lớn lao, thiêng liêng, mang giá trị lịch sử và thời đại sâu sắc: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.

1. Tuyên ngôn Độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh chắp bút vào cuối tháng 8-1945, trong bối cảnh đặc biệt của lịch sử đất nước. Cuộc Cách mạng Tháng Tám đã thành công nhanh chóng, đất nước giành lại chính quyền từ tay phát xít Nhật. Tuy nhiên, nền độc lập vừa giành được của dân tộc Việt Nam đứng trước nguy cơ bị các thế lực thực dân, đế quốc tái chiếm. Trong thời điểm ấy, bản Tuyên ngôn không chỉ là lời tuyên bố trước quốc dân, đồng bào cả nước, mà còn là thông điệp gửi tới cộng đồng quốc tế: Việt Nam đã độc lập và nhân dân Việt Nam quyết tâm bảo vệ nền độc lập ấy bằng tất cả tinh thần, lực lượng và sinh mệnh của mình.

Chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập bằng cách trích dẫn hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng của nhân loại, đó là Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1789 của nước Pháp.

Kể lại việc làm đặc biệt này của Chủ tịch Hồ Chí Minh, L.A.Patti khi đó là Trưởng phòng Đông Dương, Cơ quan Tình báo chiến lược OSS của Mỹ ở Hoa Nam đã viết: Trong cuộc gặp ngày 29-8-1945, Patti đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh cho nghe bản dự thảo Tuyên ngôn Độc lập, ông rất ngạc nhiên khi thấy

Hồ Chí Minh đã sử dụng, đảo trật tự, thay thế một số câu trong bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ. Điều này đã đem lại cho bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam tầm vóc và ý nghĩa mới. Theo đó, nếu bản Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ viết: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” thì Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở rộng và nâng vấn đề quyền tự do lên một tầm cao mới, không dừng lại ở quyền cho mỗi cá nhân mà mở rộng trở thành quyền của mọi dân tộc. Người viết: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Với cách trích dẫn này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam vào một nền tảng tư tưởng mang tính phổ quát, được công nhận bởi chính những quốc gia văn minh nhất. Đồng thời, đây cũng là một việc làm có tính chất ngoại giao khéo léo, khi Người đưa cuộc cách mạng của Việt Nam thoát khỏi khuôn khổ “một xứ thuộc địa nổi dậy” để đặt ngang hàng với các cuộc cách mạng dân chủ vĩ đại trên thế giới. Điều này giúp cho lời tuyên bố độc lập của Việt Nam trở nên chính danh, có căn cứ pháp lý, có sức thuyết phục và sự lan tỏa quốc tế mạnh mẽ.

Tiếp đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh dành phần lớn nội dung Tuyên ngôn để lên án, vạch trần tội ác của thực dân Pháp đối với đất nước và nhân dân Việt Nam để từ đó chứng minh giá trị của độc lập, tự do qua thực tiễn đau thương.

Trong bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đi xa hơn khi lật tẩy sự phản bội của thực dân Pháp trong giai đoạn cuối của cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Khi đó, thực dân Pháp đã “bỏ chạy”, “đầu hàng” và “bán nước ta hai lần cho Nhật”. Vì thế, “từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa… Sự thực là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”. Từ đó, Người tuyên bố: “Lâm thời Chính phủ nước Việt Nam mới - đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”, đồng thời “toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng quyết liệt chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp”.

Không chỉ lên án tội ác của thực dân Pháp, Tuyên ngôn Độc lập còn khẳng định rõ ràng và dứt khoát: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”. Sự lặp lại của cụm từ “phải được” trong một đoạn văn ngắn không chỉ là một cách nhấn mạnh về ngữ pháp, mà còn là sự khẳng định quyền thiêng liêng không thể chối cãi của mỗi người dân Việt Nam, đó là quyền sống trong một đất nước tự do, độc lập, quyền làm chủ vận mệnh của chính mình.

Kết thúc bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Lời khẳng định đanh thép ấy chính là điểm hội tụ cao nhất của tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” - tư tưởng được Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh từng bước khẳng định từ những ngày đầu bước chân đi tìm đường cứu nước cho đến thời khắc lịch sử ngày 2-9-1945.

2. Kể từ khi ra đời và được khẳng định trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã trở thành ngọn cờ tư tưởng lớn lao, dẫn dắt dân tộc Việt Nam vượt qua những chặng đường đầy khó khăn, gian khổ nhưng cũng vô cùng oanh liệt để bảo vệ và giữ vững chân lý ấy.

Ngay sau khi tuyên bố độc lập, đất nước Việt Nam bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp. Trong hoàn cảnh lực lượng còn non yếu, đất nước đói nghèo do hậu quả của chiến tranh kéo dài, nền độc lập mới giành được bị đe dọa nghiêm trọng, chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” trở thành ngọn cờ hiệu triệu, cổ vũ nhân dân Việt Nam vùng lên chiến đấu, là nền tảng cho tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, làm nên Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu. Nhưng ngay sau đó, đất nước Việt Nam lại bước vào một cuộc chiến tranh khốc liệt khác - cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Một lần nữa, chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, vang lên đầy khí phách năm 1966, khi Người kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân chiến đấu đến cùng để bảo vệ nền độc lập dân tộc và tự do cho nhân dân. Lời tuyên bố ấy không chỉ là một lời hiệu triệu, mà còn là sự khẳng định quyết tâm sắt đá của một dân tộc không bao giờ khuất phục.

Dưới ánh sáng của chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, biết bao thế hệ người dân Việt Nam đã “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, chiến đấu không tiếc máu xương, không chỉ để bảo vệ tấc đất quê hương, mà cao hơn là bảo vệ nền độc lập, thống nhất và tự do của dân tộc. Cuộc kháng chiến trường kỳ và gian khổ ấy đã đi đến thắng lợi vĩ đại vào mùa xuân năm 1975 - một chiến thắng không chỉ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mà còn khẳng định trước thế giới rằng: "Không có thế lực nào có thể khuất phục được một dân tộc mang trong mình lý tưởng độc lập, tự do".

Từ đây, đất nước Việt Nam bước sang một thời kỳ mới, thời kỳ khôi phục và phát triển, song chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” vẫn giữ nguyên giá trị lý luận và thực tiễn. Đặc biệt, khi công cuộc đổi mới được khởi xướng từ năm 1986, tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” tiếp tục được Đảng Cộng sản Việt Nam cụ thể hóa bằng đường lối phát triển kinh tế độc lập, tự chủ, mở rộng hợp tác quốc tế trên cơ sở giữ vững chủ quyền quốc gia.

Trải qua 80 năm, đất nước Việt Nam đã đổi thay sâu sắc, từ một quốc gia nô lệ, nghèo nàn, bị tàn phá bởi chiến tranh, giờ đây, “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Bên cạnh những điều kiện thuận lợi của thời đại toàn cầu hóa, đất nước Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều thách thức an ninh phi truyền thống, sức ép về kinh tế, văn hóa... Vì vậy, chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” không chỉ cần được giữ gìn bằng lòng yêu nước mà còn phải được cụ thể hóa bằng những đường lối kiên định, linh hoạt và khôn khéo. Một đường lối minh chứng sâu sắc cho chân lý đó chính là đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế với hình ảnh biểu tượng: Ngoại giao "cây tre Việt Nam". Đó là đường lối kiên cường mà mềm mại, vững gốc mà biết uốn mình khi cần thiết, thực hiện những chính sách “vạn biến” linh hoạt, khôn khéo để hội nhập hiệu quả, tranh thủ thời cơ, hóa giải thách thức trên cơ sở giữ vững nguyên tắc bất biến “độc lập, tự do” của đất nước và dân tộc.

Bên cạnh đó, trong bối cảnh hiện nay, giữ vững độc lập không chỉ là độc lập chủ quyền lãnh thổ mà còn là độc lập về chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng. Tự do không còn bó hẹp trong khái niệm pháp lý, mà là tự do sáng tạo, tự do tiếp cận tri thức, tự do vươn lên làm chủ cuộc đời…. Bởi vậy, bản Tuyên ngôn Độc lập và chân lý “không có gì quý hơn độc lập, tự do” trong tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn luôn đặt ra cho chúng ta yêu cầu vừa phải bảo vệ thành quả độc lập, vừa phải hiện thực hóa tự do một cách đầy đủ, toàn diện.

Rõ ràng, Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 không chỉ mở ra kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam - kỷ nguyên của độc lập, tự do và chủ quyền quốc gia, mà còn đặt nền tảng tư tưởng cho cả quá trình cách mạng lâu dài, bền bỉ và vô cùng anh dũng của dân tộc Việt Nam. Chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định từ Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 đã, đang và sẽ là ngọn đuốc soi đường cho dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược và từng bước khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế, để đất nước Việt Nam giữ vững ngọn cờ độc lập dân tộc và tự tin “sánh vai với các cường quốc năm châu” đúng như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời.

Tiến sĩ Vũ Mạnh Hà
Theo Báo Hà Nội mới

- - - - - -

(*) Trích tham luận của Tiến sĩ Vũ Mạnh Hà, Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh tại Hội thảo khoa học quốc gia với chủ đề "Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9: Giá trị thời đại và sức sống trường tồn".

Chia sẻ bài viết