Đêm 23-11-1940, đoàn người kéo về Xóm Đình, Hòa Tú (lúc bấy giờ thuộc quận Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng, nay là xã Hòa Tú, TP Cần Thơ) dưới sự chỉ huy của thủ lĩnh Văn Ngọc Chính, cất cao lời thề chiến đấu đến giọt máu cuối cùng để quê hương, đất nước được tự do, độc lập. Khởi nghĩa Nam Kỳ ở Hòa Tú bắt đầu với hào khí rực lửa.
Lời thề Hòa Tú
Khoảng trưa 22-11-1940, Tỉnh ủy lâm thời Sóc Trăng nhận lệnh khởi nghĩa của Xứ ủy Nam Kỳ, nhanh chóng phổ biến đến các chi bộ và cơ sở đảng trong tỉnh. Đảng bộ và nhân dân Sóc Trăng nổi dậy khởi nghĩa. Từ làng Khánh Hưng, tỉnh lỵ Sóc Trăng, đến Trường Khánh, Long Phú, An Lạc Thôn... khí thế Nam Kỳ khởi nghĩa dâng lên rừng rực.
Nổi bật nhất là cuộc nổi dậy tại làng Hòa Tú, quận Châu Thành. Khoảng 20 giờ ngày 23-11, hơn 100 quần chúng trong các tổ chức phản đế ở Xóm Đình, Chợ Kinh, Bàu Gòn, Trà Thê được trang bị giáo, mác, kích, phảng, gậy gộc... kéo về Xóm Đình. Đông đảo các tầng lớp nhân dân yêu nước, các tín đồ Cao Đài, Thiên Chúa cũng được tập hợp trước sân nhà đồng chí Văn Ngọc Chính, sẵn sàng chờ lệnh xuất quân. Đồng chí Văn Ngọc Chính, thay mặt Ban Chỉ huy khởi nghĩa tuyên bố việc Xứ ủy Nam Kỳ đã quyết định lãnh đạo nhân dân Nam Kỳ đứng lên giành chính quyền. Ngay trong đêm, Chi bộ cùng nhân dân đánh chiếm đồn Cổ Cò, bắt bọn tề và địa chủ gian ác, giành chính quyền về tay nhân dân, giành lại ruộng đất cho dân cày. Đồng chí Văn Ngọc Chính cất cao lời thề: “Chúng tôi là những người cộng sản thề cùng nhân dân chiến đấu đến giọt máu cuối cùng và cương quyết hoàn thành nhiệm vụ của Đảng giao”. Dứt lời, quần chúng đồng thanh hô vang lời thề quyết chiến đấu vì độc lập, tự do của quê hương. Cờ đỏ sao vàng lần đầu tiên xuất hiện, tung bay trong làng Hòa Tú.

Đại gia đình ông Văn Ngọc Nhuần về nguồn, thăm lại đình Hòa Tú, tượng đài và phù điêu lưu dấu nơi diễn ra cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ do đồng chí Văn Ngọc Chính chỉ huy. Ảnh: NVCC
Khoảng 22 giờ đêm, đoàn người xuất quân tiến về Cổ Cò và giành thắng lợi trọn vẹn theo kế hoạch: giải tán bộ máy tề làng Hòa Tú, thiêu hủy toàn bộ hồ sơ, sổ sách của hội tế và địa chủ, thu 7 súng và một số đạn dược.
Trên đường về, đồng bào gia nhập lực lượng khởi nghĩa ngày càng đông. Ban Chỉ huy khởi nghĩa họp rút kinh nghiệm, thống nhất cử liên lạc xin ý kiến chỉ đạo của Tỉnh ủy, chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết tiến đánh ra Nhu Gia, Bãi Xàu, Khánh Hưng... Đồng bào người gánh, người bưng cơm nước, thức ăn đến khao quân, ai cũng phấn khởi trước thắng lợi lớn.
Trưa 24-11-1940, sau khi nhận được tin cấp báo, Chủ tỉnh Sóc Trăng đã cùng viên hiến binh (người Pháp) và viên sĩ quan (người Việt) chỉ huy khoảng 20 tên lính được trang bị vũ khí đầy đủ, cấp tốc tiến về Tầm Lon và Ba Chùa để đàn áp cuộc khởi nghĩa. Trước một đội quân nhà nghề, được trang bị vũ khí hiện đại, lực lượng nổi dậy tuy đông, nhưng phần lớn chỉ được trang bị vũ khí thô sơ, súng đạn quá ít, nên để bảo toàn lực lượng, Ban Chỉ huy ra lệnh cho đại bộ phận rút lui. Đồng thời, bố trí một tổ nghĩa quân ở lại chiến đấu do đồng chí Văn Ngọc Chính chỉ huy. Dù thế địch rất mạnh, nhưng nghĩa quân vẫn dũng cảm chiến đấu đến viên đạn cuối cùng. Với cuộc chiến không cân sức, nhiều nghĩa quân của ta hy sinh, nhiều người bị bắt.
Địch sau đó lập đồn ở đình Hòa Tú, ráo riết củng cố hội tề làng, liên tiếp mở các cuộc càn quét, lùng bắt quân khởi nghĩa gắt gao. Số người bị bắt ở vùng Hòa Tú lên đến hàng trăm người, trong đó có 3 anh em: Văn Ngọc Chính, Văn Ngọc Tố, Văn Ngọc Nhụy. Nhiều đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy Sóc Trăng, lãnh đạo Nam Kỳ khởi nghĩa các địa phương cũng bị địch bắt, đày ra Côn Đảo. Theo thống kê, đến ngày 30-12-1940, trong toàn xứ Nam Kỳ, thực dân Pháp đã bắt 5.848 người, trong đó tỉnh Sóc Trăng có 187 người.
Đình Hòa Tú đã được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận Di tích Lịch sử Cách mạng cấp quốc gia vào năm 1992. Tên đồng chí Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Văn Ngọc Chính được đặt cho một ngôi trường, một tuyến đường thuộc TP Cần Thơ hiện nay. Tên đồng chí Văn Ngọc Tố cũng được chọn đặt tên cho một xã của TP Cần Thơ và tên đồng chí Văn Ngọc Nhụy được chọn đặt tên cho một ấp hiện nay.
Chân dung vị thủ lĩnh
Ngày 23-8-2025, chúng tôi có dịp về thăm nhà bà Văn Thị Bạch, 89 tuổi (ngụ phường Mỹ Xuyên, TP Cần Thơ), là con gái lớn của đồng chí Văn Ngọc Chính, nhân ngày giỗ lần thứ 70 của ông. Cùng đi với chúng tôi có nghệ sĩ nhiếp ảnh Văn Ngọc Nhuần, con trai út của đồng chí Văn Ngọc Chính. Trong làn hương tỏa quyện, ngắm nhìn di ảnh đồng chí Văn Ngọc Chính khiến chúng tôi mường tượng đến hình ảnh người thủ lĩnh Nam Kỳ khởi nghĩa cách đây tròn 85 năm. Khi ấy, đồng chí mới 32 tuổi và người con gái đầu Văn Thị Bạch chỉ vừa tròn 4 tuổi.

Tác giả bài viết phỏng vấn bà Văn Thị Bạch, 89 tuổi, con gái lớn của Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Văn Ngọc Chính. Ảnh: VĂN NGỌC NHUẦN
Trong ký ức của những người con, chúng tôi được nghe kể về đồng chí Văn Ngọc Chính, người chiến sĩ cách mạng dũng cảm, kiên cường với tinh thần yêu nước bất khuất. Đồng chí Văn Ngọc Chính sinh năm 1908 trong một gia đình nông dân nghèo làng Hòa Tú. Đồng chí sớm giác ngộ cách mạng, trở thành Đảng viên Cộng sản lúc 30 tuổi, sinh hoạt tại Chi bộ làng Hòa Tú, sau làm Bí thư chi bộ. Cùng với chi bộ, đồng chí đã lãnh đạo các tổ chức phản đế ở địa phương chuẩn bị sẵn sàng để hưởng ứng hành động khi có lệnh khởi nghĩa của Xứ ủy Nam kỳ.
Sau khi lãnh đạo thành công cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ ở làng Hòa Tú, đồng chí bị địch bắt, đưa ra tòa xử, kết án chung thân khổ sai, tịch thu gia sản và đày ra Côn Đảo. Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, đồng chí Văn Ngọc Chính được trở về đất liền và tiếp tục tham gia cách mạng.
Từ tháng 2-1950 đến tháng 7-1954, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Sóc Trăng, làm Bí thư Huyện ủy Thạnh Trị, sau là Trưởng Ty Canh nông. Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, đồng chí Văn Ngọc Chính được phân công ở lại miền Nam hoạt động, bám địa bàn, củng cố và xây dựng cơ sở cách mạng để bước vào cuộc đấu tranh mới. Ông luôn đem hết sức lực và khả năng của mình phục vụ cách mạng. Đến đâu, ở đâu, ông cũng được đồng bào yêu mến, đùm bọc, che chở.
Ông Văn Ngọc Nhuần lý giải, ngày 23-8 dương lịch hằng năm được gia đình chọn làm ngày cúng giỗ đồng chí Văn Ngọc Chính, chứ thật ra, không ai biết rõ ông hy sinh ngày nào. Ngày 23-8-1955 là ngày đơn vị tổ chức lễ truy điệu đồng chí Văn Ngọc Chính, gia đình chọn ngày này làm giỗ. “Địch lén lút thủ tiêu cha tôi, quăng mất xác, không sao tìm được. Ngày cha hy sinh, tôi chỉ mới hơn 1 tháng tuổi”, ông Văn Ngọc Nhuần ngậm ngùi.
Chuyện là vào ngày 5-6-1955, do có kẻ phản bội chỉ điểm, đồng chí Văn Ngọc Chính bị địch bắt trên đường đi công tác ở Hiệp Hòa (nay thuộc xã Gia Hòa). Chúng đem ông về Sóc Trăng tra tấn dã man nhưng không khai thác được gì nên đê hèn chọn cách thủ tiêu. Chúng bịt miệng ông, bỏ vào bao bố, dùng lưỡi lê đâm xuyên qua người cho đến chết rồi quăng xuống cầu Đại Ngãi để nước cuốn trôi mất tích.
* * *
"Thật hiếm có trên đất nước này, 3 anh em ruột cùng khởi nghĩa Nam Kỳ 1940 và cùng bị đày ra Côn Đảo. Cũng thật hiếm có trên cùng một bàn thờ, có 3 anh hùng an vị (mẹ và vợ của Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Văn Ngọc Chính đều là Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng)". Trong đình Hòa Tú có ban thờ thờ đồng chí Văn Ngọc Chính trang trọng với tư cách là một vị Nhân Thần, được bà con ngày ngày khói hương thành kính. Đứng bên tượng người cha anh hùng, ông Văn Ngọc Nhuần xúc động trào dâng. Người cha mà ông không thể nhớ trong ký ức tuổi thơ nhưng lại hiển hiện qua từng trang sử, lời kể của quê hương, xứ sở thân yêu. Trước sân đình, một tượng đài uy nghiêm nổi bật với ngọn đuốc cháy sáng, cùng vách phù điêu rộng lớn lưu dấu Nam Kỳ khởi nghĩa làng Hòa Tú 1940. Lời thề của đồng chí Văn Ngọc Chính năm nào còn vang vọng như truyền lửa cho thế hệ hôm nay nguyện tiếp bước hào khí Nam Kỳ khởi nghĩa trên quê hương Cần Thơ anh hùng.
ĐĂNG HUỲNH
Mời xem bài cuối: Viết tiếp hào khí Nam Kỳ khởi nghĩa