“Khắp lục tỉnh Nam Kỳ/ Từ Đồng Nai cho tới Hòn Khoai/ Nhân dân ta sát vai một lòng/ Đi theo Đảng Cộng sản Việt Nam…”, lời bản hợp xướng “Nam Kỳ khởi nghĩa” của cố nhạc sĩ Lư Nhất Vũ đưa người nghe về với không khí sục sôi của 85 năm về trước. Đó là những ngày cuối tháng 11-1940, đồng bào Nam Bộ đã anh dũng đứng lên khởi nghĩa, làm rung chuyển chính quyền cai trị của thực dân Pháp và tay sai. Hòa cùng không khí sục sôi ấy, đồng bào Cần Thơ và Sóc Trăng (nay thuộc TP Cần Thơ) giương cao ngọn cờ Nam Kỳ khởi nghĩa.
Nhân kỷ niệm 85 năm Ngày Nam Kỳ khởi nghĩa (23/11/1940 - 23/11/2025), Báo và Phát thanh, Truyền hình Cần Thơ xin giới thiệu loạt bài 3 kỳ “85 năm, sáng mãi ngọn lửa Nam Kỳ khởi nghĩa”, đăng trên trang Sáng tác - Biên khảo, số ra chủ nhật các ngày 9-11, 16-11 và 23-11.
Bài 1: Ngọn cờ Phú Hữu
Từ bến Ninh Kiều xuôi dòng sông Hậu theo hướng ra biển chừng 20 cây số, rẽ vào sông Mái Dầm, đi thêm 2 cây số nữa là tới Di tích “Nam Kỳ khởi nghĩa 1940 ở Phú Hữu”. Tượng đài Nam Kỳ khởi nghĩa bên mái đình Phú Hữu, soi bóng xuống dòng Mái Dầm êm trôi con nước. Lịch sử hào hùng 85 năm về trước như vẫn còn vang vọng đâu đây...
Đứng lên phá thế “một cổ hai tròng”
Tháng 9-1939, Thế chiến thứ II bùng nổ, Pháp đầu hàng phát xít Đức nên phát xít Nhật nhân cơ hội này kéo quân vào Đông Dương. Nhân dân ta lâm vào tình thế “một cổ hai tròng”. Tháng 11-1940, quân phiệt Thái Lan theo lệnh phát xít Nhật tiến đánh Campuchia. Thực dân Pháp bắt lính Nam Bộ ra trận làm bia đỡ đạn cho chúng. Căm thù thực dân Pháp và được cổ vũ bởi tiếng súng khởi nghĩa Bắc Sơn, nhân dân Nam Bộ sục sôi tranh đấu.

Di tích quốc gia “Nam Kỳ khởi nghĩa 1940 ở Phú Hữu”. Ảnh: DUY KHÔI
Ðến giữa tháng 11-1940, trước tinh thần đấu tranh của quần chúng, đặc biệt là tinh thần phản chiến của binh lính Việt Nam trong quân đội Pháp, Xứ ủy Nam Kỳ quyết định phát động toàn Nam Kỳ nổi dậy đánh đổ chính quyền thuộc địa, giành chính quyền về tay nhân dân. Thời điểm hành động nhất loạt ở các tỉnh Nam Kỳ là lúc 0 giờ rạng sáng 23-11-1940, hiệu lệnh là đèn Sài Gòn tắt hoặc có tiếng súng nổ.
Khởi nghĩa bùng nổ đồng loạt tại hầu hết các tỉnh Nam Kỳ với tinh thần quyết liệt, từ Gia Ðịnh, Chợ Lớn, Mỹ Tho, đến Cần Thơ, Vĩnh Long... Lực lượng vũ trang và quần chúng đã nổi dậy tiến công địch ở các xã, tập kích nhiều đồn bốt, tiến đánh một số quận lỵ, phá hỏng nhiều cầu, đường... Tại một số xã, quận, chính quyền địch hoang mang, tan rã, chính quyền cách mạng được thành lập. Lần đầu tiên cờ đỏ sao vàng xuất hiện ở những nơi đã thành lập chính quyền cách mạng và trong nhiều cuộc biểu tình. Bọn phản cách mạng bị xét xử. Ruộng, lúa của địa chủ phản động được chia cho dân cày nghèo.
Tuy nhiên, cuộc khởi nghĩa bị thực dân Pháp khủng bố khốc liệt, chìm trong biển máu. Tháng 12-1940, Xứ ủy Nam Kỳ họp ở Bà Quẹo (Gia Định) quyết định rút lui cuộc khởi nghĩa để tránh tổn thất, đưa lực lượng còn lại xây dựng căn cứ U Minh và Đồng Tháp Mười. Dù diễn ra trong thời gian ngắn nhưng khởi nghĩa Nam Kỳ là cuộc khởi nghĩa vũ trang có phạm vi rộng nhất và mức độ quyết liệt nhất kể từ khi thực dân Pháp xâm chiếm lục tỉnh Nam Kỳ năm 1867 đến thời điểm 1940.
Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ đã để lại dấu ấn không thể phai mờ của miền Nam thành đồng Tổ quốc. Khởi nghĩa Nam Kỳ đã làm rung chuyển chính quyền cai trị của thực dân Pháp và tay sai ở Nam Bộ, trở thành tiếng súng báo hiệu cho thắng lợi tất yếu của cuộc tổng khởi nghĩa toàn quốc.
Khởi nghĩa Nam Kỳ ở Phú Hữu
Mang theo những trang sử ấy, chúng tôi tìm về xã Châu Thành, TP Cần Thơ, nơi có Di tích quốc gia “Nam Kỳ khởi nghĩa 1940 ở Phú Hữu”. Chúng tôi gặp được ông Nguyễn Văn Tòng (Năm Tòng), một cựu chiến binh ở địa phương, là người giới thiệu và đón khách tham quan di tích này. Ông Năm Tòng năm nay 70 tuổi, từng là Chủ tịch Hội Cựu chiến binh thị trấn Mái Dầm (cũ). Gần 20 năm qua, ông Năm Tòng vẫn bền bỉ kể sử quê hương với du khách, thế hệ trẻ. Dù không phải là chứng nhân của Nam Kỳ khởi nghĩa nhưng qua lời kể của tiền nhân và các tài liệu ghi chép, ông Năm Tòng viết thành bài thuyết minh, súc tích và đầy bi tráng.

Cô và trò Trường THCS Nam Kỳ Khởi Nghĩa (xã Châu Thành) bên bia đá ghi lại sự kiện Nam Kỳ khởi nghĩa 1940 ở Phú Hữu. Ảnh: DUY KHÔI
“Đất này là đất anh hùng. Nam Kỳ khởi nghĩa ở đây long trời lở đất đó chớ. Tôi kể sử để truyền cho du khách, nhất là tuổi trẻ niềm tự hào về quê hương”, ông Năm Tòng mở đầu câu chuyện với chúng tôi như thế. Và trong hồi ức của ông lão tuổi 70, vẫn vẹn nguyên ngọn lửa khởi nghĩa Nam Kỳ làng Phú Hữu.
Đầu thế kỷ XX, làng Phú Hữu thuộc tổng Định An, quận Phụng Hiệp, tỉnh Cần Thơ. Năm 1937, đồng chí Quản Trọng Hoàng, cán bộ lãnh đạo của Đặc ủy Hậu Giang, đến Phú Hữu gieo hạt giống cách mạng, kết nạp các ông: Nguyễn Phước Ngoạn (Ba Gần), Nguyễn Văn Phúc (Trần Duy Phước) và Ngô Văn Diệm vào tổ chức Nông hội đỏ. Sau thời gian thử thách, nâng cao sự hiểu biết về Đảng, 3 đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, tại rạch Bà Hơn (Xóm Chài - Cần Thơ).
Các đồng chí trở về Phú Hữu, thành lập chi bộ dự bị tại nhà đồng chí Ba Gần, ở Ngã Lá, Phú Hữu, do đồng chí Quản Trọng Hoàng làm Bí thư. Ngày 15-6-1938, 3 đảng viên dự bị được chuyển chính thức, đồng chí Quản Trọng Hoàng rút khỏi chi bộ về trên công tác, đồng chí Trần Duy Phước được bầu làm Bí thư. Chi bộ Đảng ở Phú Hữu ra đời đã lãnh đạo phong trào đấu tranh của nông dân rất sôi nổi và xây dựng cơ sở cách mạng rất tốt.
Từ khi nhận được “Đề cương khởi nghĩa” của Xứ ủy Nam Kỳ do Tỉnh ủy Cần Thơ triển khai vào tháng 4-1940, Chi bộ Phú Hữu đã ráo riết chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa. Chi bộ tổ chức nhiều cuộc họp quần chúng tốt để phát động phong trào và chọn một địa điểm trong rừng sâu cất chòi dưới bóng những cây kè (gọi là chòi “Cây Kè”) để làm nơi học tập huấn luyện cho những thanh niên, nông dân có tâm huyết cách mạng trong làng.
Lệnh khởi nghĩa của Xứ ủy Nam Kỳ đến Cần Thơ vào lúc 12 giờ trưa ngày 22-11-1940, nhưng đến khuya ngày 23-11-1940, Quận ủy Phụng Hiệp mới nhận được lệnh và tiến hành khởi nghĩa. Sáng 24-11-1940, Chi bộ xã Phú Hữu vận động được khoảng 70 quần chúng yêu nước tập hợp tại nhà bà Lụa (mẹ của đồng chí Ba Gần) ở Ngã Lá, kết hợp lực lượng các xã khác như Đông Sơn, Đông Phú tiến về quận lỵ Phụng Hiệp. 4 giờ chiều cùng ngày, lực lượng tới Ngã Bảy - Phụng Hiệp.
Với những giá trị lịch sử, văn hóa, Di tích “Nam Kỳ khởi nghĩa 1940 ở Phú Hữu” đã được Bộ Văn hóa - Thông tin ban hành Quyết định số 154-VH/QĐ, ngày 25-1-1991, công nhận là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp quốc gia.
Do kế hoạch chiếm quận lỵ Phụng Hiệp của ta bị lộ, nên tiến hành phương án 2: đốn cây, kéo cột dây thép làm chướng ngại và đốt cầu Phụng Hiệp. Công việc đang tiến hành thì cấp trên cho lệnh rút về đánh đồn Cái Cui ở làng Đông Phú. Bọn lính đồn Cái Cui nghe Cộng sản nổi dậy liền bỏ trốn, kế hoạch đánh đồn không thực hiện được, quân khởi nghĩa liền kéo về chiếm Nhà Việc làng Phú Hữu. Hội tề làng trốn sạch, quân khởi nghĩa giương cao băng, cờ, khẩu hiệu kêu gọi nhân dân đứng lên cướp chính quyền, giành lại ruộng đất; đốt toàn bộ sổ sách, giấy tờ của địch. Đồng chí Ba Gần đã cắm cờ ở Nhà Việc trong cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ năm 1940.
Bọn địch ở Trà Ôn được tin báo, Quận trưởng Trà Ôn đưa quân đến đàn áp cuộc khởi nghĩa. Chúng bắt 37 người, gồm các cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng. Nhiều người sau đó bị giam ở Khám Lớn Cần Thơ, trước khi bị đày ra Côn Ðảo, trong đó có anh em đồng chí Ba Gần, Bí thư Quận ủy Phụng Hiệp Nguyễn Văn Mai...
***
Nghe chuyện xưa của quê hương, em Nguyễn Khánh Ngọc, học sinh lớp 9, Trường THCS Nam Kỳ Khởi Nghĩa, xã Châu Thành, bồi hồi chia sẻ: “Em tự hào về truyền thống của quê hương và biết ơn các thế hệ cha ông đi trước. Dù không phải là lần đầu đến di tích và được nghe kể, nhưng mỗi lần em đều rất xúc động”. Ông Năm Tòng cũng vậy, với ông mỗi lần đứng dưới chân bia kỷ niệm kể về Nam Kỳ khởi nghĩa ở Phú Hữu là một lần cảm giác mới mẻ, thấp thoáng trong tâm trí ông là hình ảnh đồng chí Ba Gần cắm cờ ở Nhà Việc Phú Hữu với lá cờ bay phấp phới tự hào.
ĐĂNG HUỲNH
Mời xem tiếp bài 2: Lời thề dưới mái đình làng