05/09/2022 - 05:47

Ðào tạo nguồn nhân lực khu vực công chất lượng cao 

BÍCH KIÊN

Việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao (NNLCLC), nhất là nhân lực khu vực công phục vụ phát triển kinh tế - xã hội cho vùng ÐBSCL hiện vẫn còn khó khăn, cần được tháo gỡ bằng nhiều giải pháp và chiến lược căn cơ. Từ đó góp phần tạo động lực phát triển toàn vùng.

Sinh viên ngành Logistics và quản lý chuỗi cung ứng, Trường Đại học Kỹ thuật - Công nghệ Cần Thơ thực tập tại Cảng Cái Cui, TP Cần Thơ. Ảnh: CTV

Chưa đáp ứng kỳ vọng

Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ÐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Nghị quyết số 13-NQ/TW) nhấn mạnh: ÐBSCL là vùng có nhiều tiềm năng, lợi thế phát triển; là vùng sản xuất và xuất khẩu lương thực, thực phẩm, thủy hải sản và trái cây lớn nhất của cả nước, đóng góp khoảng 50% sản lượng lúa, 95% lượng gạo xuất khẩu, gần 65% sản lượng thủy sản nuôi trồng… Ðể cụ thể hóa các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp của của nghị quyết trên, ngày 18-6-2022, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 78/NQ-CP về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW. Theo đó, một trong những nhiệm vụ quan trọng của vùng là “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) có bản lĩnh chính trị, tính chuyên nghiệp cao, năng động, sáng tạo, nhất là đội ngũ lãnh đạo, quản lý các cấp. Ðẩy mạnh cải cách hành chính, phát triển chính quyền điện tử, hướng đến chính quyền số, nền kinh tế số và xã hội số, đô thị thông minh; đề cao trách nhiệm người đứng đầu…”. Tuy nhiên, NNLCLC, nhất là NNL trong khu vực công ở ÐBSCL vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển.

Tại Long An, từ năm 2005, Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã có các đề án, kế hoạch đào tạo CBCCVC với nhiều giai đoạn. Theo kết quả đào tạo NNL trong hệ thống chính trị của tỉnh giai đoạn 2011-2020, có 1.262 CBCCVC trình độ đại học, 941 CBCCVC trình độ sau đại học trong nước và 55 người trình độ sau đại học nước ngoài, chủ yếu ở lĩnh vực khoa học - kỹ thuật, giáo dục - đào tạo, y tế… Theo ông Mai Văn Nhiều, Phó Chủ tịch Thường trực HÐND tỉnh Long An, 75% CBCCVC của tỉnh có trình độ đại học trở lên, nhưng tỷ lệ có trình độ sau đại học còn thấp. Cụ thể là trình độ tiến sĩ chỉ chiếm 0,03% và thạc sĩ chỉ 5%. Tỉnh còn thiếu cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực. Nhiều cán bộ thiếu tính chuyên nghiệp, trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn hạn chế.

Tương tự, tỉnh Tiền Giang đã ban hành nhiều nghị quyết, kế hoạch liên quan đến phát triển NNLCLC cho khu vực công. Từ đội ngũ CBCCVC với 13 tiến sĩ, 334 thạc sĩ, 9.188 đại học vào năm 2008; đến tháng 6-2022 đã tăng lên 49 tiến sĩ, 1.555 thạc sĩ và 15.831 người có trình độ đại học. Theo ông Nguyễn Ðình Thông, Giám đốc Sở Kế hoạch và Ðầu tư tỉnh Tiền Giang, đội ngũ CBCCVC tương đối đông nhưng thiếu cán bộ đầu ngành có trình độ, năng lực và chuyên môn giỏi; vẫn còn tình trạng thiếu tính chuyên nghiệp, chưa đáp ứng được yêu cầu công việc...

Theo GS.TS Sử Ðình Thành, Hiệu trưởng Trường Ðại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh (UEH), giai đoạn 2015-2020, tổng số cán bộ có trình độ đại học trở lên của vùng ÐBSCL chỉ chiếm trên 31%, thấp hơn rất nhiều so với mức trung bình cả nước là 48,1%; khu vực quản lý nhà nước có 7,4% tổng số CBCCVC đạt trình độ cao đẳng, đại học trở lên, trong đó 13,3% cán bộ đã qua đào tạo về trình độ quản lý Nhà nước. Trong khi đó, toàn vùng có 17 trường đại học, 26 trường cao đẳng và 62 cơ sở đào tạo trung cấp chuyên nghiệp chủ yếu đào tạo về kỹ thuật, kinh doanh, quản trị, nông nghiệp, du lịch, môi trường… nhưng phần lớn phục vụ cho khu vực tư. “Công tác đào tạo NNLCLC khu vực công vẫn còn hạn chế, đòi hỏi cần có giải pháp căn cơ để thúc đẩy phát triển bền vững cho ÐBSCL nói riêng và cả nước nói chung”, GS.TS Sử Ðình Thành nói.

Buổi học thực hành thông qua ứng dụng công nghệ thông tin của giảng viên, sinh viên Trường Đại học Kỹ thuật - Công nghệ Cần Thơ. Ảnh: B.NG

Giải pháp phát triển nguồn nhân lực khu vực công ĐBSCL

Trong khuôn khổ Tọa đàm “Nhân lực khu vực công cho ÐBSCL”, do UEH tổ chức tại tỉnh Vĩnh Long mới đây, đại diện lãnh đạo UBND, sở, ngành, viện, trường đại học thuộc vùng ÐBSCL đã nêu hạn chế trong đào tạo NNLCLC khu vực công; từ đó hiến kế tháo gỡ điểm nghẽn NNL cho vùng. Một trong giải pháp mà các đại biểu đồng tình là: Hoàn thiện các cơ chế, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, thu hút đội ngũ nhân lực có trình độ cao về địa phương công tác, cũng như tạo môi trường làm việc cho CBCCVC.

Ông Nguyễn Ðình Thông cho biết: “Bên cạnh quan tâm cải thiện môi trường, điều kiện làm việc của đội ngũ CBCCVC, thì cần chú trọng chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh đội ngũ CBCCVC có đóng góp tích cực cho sự phát triển của tỉnh”. Còn ông Mai Văn Nhiều cho rằng các tỉnh, thành cần rà soát thực trạng CBCCVC và quá trình chuyển biến cơ cấu trình độ, chuyên môn ít nhất trong vòng 10 năm để đánh giá xu hướng, nhằm xây dựng kế hoạch đào tạo trong 5 năm, 10 năm hay 15 năm tới. Vì biên chế càng ngày càng giảm, công việc càng ngày càng tăng; nếu không nâng cao chất lượng đội ngũ CBCCVC thì không thể nào giải quyết được công việc, đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới. 

Theo ông Lê Thanh Hùng, Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy Kiên Giang, Chính phủ đã có quy hoạch tích hợp cho ÐBSCL, như vậy NNL cũng cần có một quy hoạch mang tính cấp vùng. Trên cơ sở đó, các tỉnh nắm rõ được nhu cầu cần NNL để đào tạo. Giả dụ như tỉnh Kiên Giang có tiềm năng về kinh tế biển và du lịch, nhưng NNL lĩnh vực này còn hạn chế; trong khi lĩnh vực khác như tài chính, ngân hàng lại nhiều. Công tác đào tạo phải gắn liền với sử dụng lao động, nhằm hiệu quả hơn.

Theo ông Nguyễn Khánh Tùng, Viện trưởng Viện Kinh tế - Xã hội TP Cần Thơ, đào tạo NNLCLC cho khu vực công vùng ÐBSCL hiện có hai vấn đề cần quan tâm là chuyển đổi số và logistics. Trong tổng số 430.000 nhân lực trong lĩnh vực công nghệ thông tin cả nước, thì nhân lực từ ÐBSCL chỉ chiếm 5% - điều này chưa tương xứng với tiềm năng dân số tại đây (khi tổng dân số trong vùng chiếm 19% dân số cả nước). Còn với logistics thì Quốc hội và Chính phủ đang quan tâm đầu tư các tuyến đường cao tốc trục dọc, trục ngang như cao tốc Mỹ Thuận - Cần Thơ, Cần Thơ - Cà Mau, Châu Ðốc - Cần Thơ - Trần Ðề. Theo số liệu của các doanh nghiệp trong lĩnh vực logistics, số lượng doanh nghiệp thực tế có hoạt động trong lĩnh vực này ở ÐBSCL chỉ chiếm 5% (tương đương 1.461 doanh nghiệp); điều này cho thấy, vùng vẫn còn không gian để phát triển NNL. Trong quá trình khảo sát, Trường Ðại học Cần Thơ vừa mở chuyên ngành về Logistics và quản trị chuỗi cung ứng, năm đầu tiên chỉ có khoảng 80 sinh viên. Trường Ðại học Kỹ thuật - Công nghệ Cần Thơ đã đào tạo được 4 khóa và đang chuẩn bị tốt nghiệp khóa thứ 5 cũng tuyển 60 sinh viên. Ông Nguyễn Khánh Tùng cho biết: "Ðối với khu vực công, những lĩnh vực này vẫn còn mới mẻ và kỳ vọng UEH sẽ có chương trình đào tạo cho lĩnh vực công và tư, để từ đó chọn lĩnh vực tạo đột phá cho ÐBSCL".

GS.TS Sử Ðình Thành cho biết nhà trường phối hợp các địa phương cùng đóng góp phát triển bền vững cho ÐBSCL nói riêng và cả nước nói chung, thông qua việc xây dựng và triển khai các chương trình đào tạo, đặc biệt là đào tạo NLCLC cho khu vực công của vùng.

Chia sẻ bài viết