01/05/2013 - 12:33

Từ cánh đồng mẫu lớn đến cánh đồng lớn

Thu hoạch lúa trên CĐML tại xã Vĩnh Bình,
huyện Châu Thành, tỉnh An Giang. Ảnh: MỸ THANH

Những năm qua, xuất khẩu gạo của Việt Nam liên tiếp phá kỷ lục, song giá trị xuất khẩu và thu nhập của nông dân vẫn chưa đạt như kỳ vọng. Với mục tiêu đưa ngành lúa gạo phát triển bền vững, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) đã phát động phong trào xây dựng mô hình Cánh đồng mẫu lớn (CĐML) để giảm chi phí, tăng thu nhập cho nông dân, góp phần xây dựng thương hiệu gạo Việt trên thị trường thế giới. Tại Diễn đàn Hợp tác “4 nhà” trong mô hình CĐML do Bộ NN&PTNT tổ chức vừa diễn ra tại tỉnh An Giang, nhiều ý kiến cho rằng, để hoàn thiện mô hình và nhân rộng ra thực tiễn sản xuất, đòi hỏi phải có sự phối hợp nhịp nhàng và phát huy trọn vẹn vai trò của từng nhà trong mối liên kết.

* Khởi điểm

Việt Nam có các vùng lúa tập trung với diện tích và sản lượng rất lớn ở Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng Trung bộ và ĐBSCL. Tuy nhiên, hình thức và quy mô canh tác nhỏ lẻ, manh mún theo từng nông hộ, trình độ sản xuất chưa cao, chất lượng lúa gạo chưa đồng đều. Thực trạng này kéo dài và dần được khắc phục qua từng giai đoạn sản xuất, song đến khi mô hình CĐML ra đời, ngành nông nghiệp Việt Nam mới có bước chuyển đổi thực sự về chất. Khởi phát từ vụ đông xuân 2007-2008 với CĐML đầu tiên ở xã An Bình, huyện Thoại Sơn, An Giang, đến nay diện tích các CĐML đã gia tăng rất nhanh. Nếu cuối năm 2011 chỉ đạt 7.803ha thì đến vụ đông xuân 2012-2013, CĐML đã tăng gấp 10 lần với diện tích hơn 76.000ha. Đến tháng 3-2013, mô hình CĐML đã lan tỏa ra một số tỉnh phía Bắc. TS Vũ Trọng Bình, Viện Phó Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp nông thôn, cho biết: “Việc xây dựng những “cánh đồng lớn” thực chất đã được thực hiện ở Việt Nam qua nhiều thời kỳ, từ hợp tác hóa đến nay. Và CĐML đang xây dựng hiện nay là những cánh đồng có thể có một hoặc nhiều chủ sở hữu nhưng có cùng quy trình sản xuất, có khả năng cung ứng đồng đều và ổn định về số lượng lẫn chất lượng theo yêu cầu thị trường”.

Vựa lúa ĐBSCL vừa cung ứng cho nhu cầu tiêu thụ nội địa vừa đóng góp lớn vào kim ngạch xuất khẩu quốc gia, song quy trình công nghệ và chuỗi cung ứng sau thu hoạch lúa vẫn còn nhiều bất cập. Theo Tiến sĩ Phạm Văn Tấn, Phó Giám đốc Phân viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ sau thu hoạch (SIAEP), mặc dù năng suất, sản lượng lúa tăng dần qua các năm song mức tổn thất sau thu hoạch lên đến 13,7%/năm. Theo đó, có quá nhiều đối tác tham gia vào chuỗi lúa gạo với nhiều tầng nấc trung gian khiến việc quản lý chất lượng lúa gạo gặp nhiều khó khăn, thiếu công bằng và giảm thu nhập của các đối tác trong chuỗi. Với mô hình CĐML, mối quan hệ hợp tác “4 nhà” giải quyết những bất cập trên và khép kín các khâu sản xuất-sơ chế-bảo quản-chế biến-kinh doanh-xuất khẩu, hình thành chuỗi cung ứng lúa gạo bền vững.

CĐML được xem là mô hình tiên tiến nhất trong sản xuất lúa gạo từ trước đến nay, song còn nhiều ý kiến cho rằng hiện nay chỉ mới triển khai ở giai đoạn mô hình mẫu. Vì thế phải chuyển từ mô hình CĐML sang “cánh đồng lớn” với tầm nhìn dài hạn, bền vững, tránh tình trạng chạy theo phong trào. Muốn vậy, mối liên kết “4 nhà” trong CĐML phải thắt chặt hơn nữa, đặc biệt là phải kết dính 2 tác nhân chính: DN và nông dân trong mối quan hệ cộng sinh, đôi bên cùng hợp tác và cùng hưởng lợi.

* Đầu tư cho nông dân và doanh nghiệp

Tại Diễn đàn Hợp tác “4 nhà” trong mô hình CĐML, các chuyên gia đầu ngành cho rằng, CĐML hiện nay vẫn còn một số hạn chế do sự liên kết giữa các nhà chưa thật sự chặt chẽ, trình độ hiểu biết, tiếp thu và ứng dụng khoa học kỹ thuật của nông dân còn hạn chế. Theo nhiều ý kiến, quan hệ giữa nông dân và DN cần chuyển từ tính thời vụ sang mối liên kết hữu cơ. DN đóng vai trò là người cung cấp vật tư đầu vào, chia sẻ và thông tin thị trường đến nông dân để điều chỉnh hoạt động sản xuất phù hợp. Ngoài ra, cần thiết lập quan hệ quản trị giữa DN và nông dân, áp đặt những tiêu chuẩn chất lượng, giá cả, phương thức giao dịch, thanh toán phù hợp giữa đôi bên để hợp tác lâu dài. Song song với việc củng cố và phát huy mối liên kết dọc và liên kết ngang giữa các nhà trong CĐML, vấn đề đầu tư hợp lý cho 2 tác nhân chính của chuỗi giá trị lúa gạo là DN và nông dân cũng cần phải chú trọng hơn nữa.

Thời gian qua, việc đầu tư trực tiếp vào các CĐML bị tác động bởi nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Vì vậy, số lượng DN tham gia đầu tư “trọn gói” cho CĐML còn rất mỏng. Theo ông Phạm Thái Bình, Giám đốc Công ty TNHH Trung An (quận Thốt Nốt, TP Cần Thơ), tham gia vào CĐML, DN mong muốn có nguồn nguyên liệu ổn định, xây dựng vùng lúa chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong và ngoài nước. Tuy nhiên, với diện tích bao tiêu lớn, DN buộc phải thu mua và chế biến một lượng lớn lúa gạo trong thời gian ngắn. Ngoài trách nhiệm đầu tư đầu cho nông dân, DN còn phải đầu tư kho chứa, nhà máy chế biến, lò sấy, phương tiện vận chuyển... Để giải quyết áp lực đầu tư cơ sở hạ tầng cho CĐML, DN rất cần những chính sách hỗ trợ từ Nhà nước. Về phía nông dân, Giáo sư Tiến sĩ Võ Tòng Xuân cho rằng: Để phát huy hiệu quả của phương thức sản xuất mới, ngành lúa gạo Việt Nam cần có những nông dân kiểu mới được đào tạo bài bản để tham gia hoạt động kinh tế mang tính cạnh tranh. Song song đó, cần tổ chức liên kết nông dân lại để hình thành những hợp tác xã, tập đoàn hoặc trang trại quy mô lớn và có năng lực sản xuất theo tiêu chuẩn Viet GAP hoặc Global GAP theo đặt hàng của DN.

Theo số liệu của Cục Trồng trọt, vụ đông xuân 2012-2013, diện tích CĐML đã lên đến 76.000ha, song diện tích này quá ít ỏi so với 1,5 triệu ha lúa vụ đông xuân của ĐBSCL. Mặc dù vậy, CĐML vẫn tiếp tục được khẳng định là mô hình ưu việt. Vì vậy, để đi từ mô hình CĐML đến những “cánh đồng lớn” nhất thiết phải có quy hoạch cụ thể, không thể triển khai tràn lan theo phong trào nếu các mối liên kết còn lỏng lẻo, nhất là giữa 2 tác nhân chính DN và nông dân. Theo Tiến sĩ Vũ Trọng Bình, Viện Phó Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp nông thôn, các địa phương cần rà soát lại những khu vực có thể xây dựng mô hình CĐML để đưa vào quy hoạch và tập trung nguồn lực đầu tư. Các cánh đồng này canh tác theo quy trình sản xuất thực hành tốt, gắn với chuỗi ngành hàng và quản lý chặt chẽ về chất lượng. Có như vậy, “cánh đồng lớn” mới phát huy hiệu quả bền vững, giúp nền sản xuất lúa gạo của Việt Nam thực sự chuyển biến về chất, tiến tới xây dựng thương hiệu cho hạt gạo Việt.

MINH HUYỀN - MỸ THANH

 

Chia sẻ bài viết