24/02/2014 - 20:36

Trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ

Theo Thông tư Liên tịch số 04/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC của Bộ Tư pháp – Tòa án nhân dân tối cao – Viện Kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ thì việc xác định lỗi của người thi hành công vụ sẽ là căn cứ quyết định mức hoàn trả.

Hội đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả xác định lỗi của người thi hành công vụ trên cơ sở nội dung văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật hoặc văn bản của cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền xác định người bị thiệt hại thuộc trường hợp được bồi thường. Việc kiến nghị về việc xác định lỗi của người có trách nhiệm hoàn trả được thực hiện bằng hình thức bỏ phiếu kín và theo nguyên tắc đa số trên tổng số thành viên Hội đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả có mặt. Trường hợp số phiếu biểu quyết là ngang nhau thì việc xác định lỗi của người thi hành công vụ sẽ do Chủ tịch Hội đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả quyết định.

Về nguyên tắc, mức hoàn trả của người thi hành công vụ được xác định tối đa không vượt quá số tiền thực tế mà Nhà nước đã chi trả cho người bị thiệt hại. Lương của người có trách nhiệm hoàn trả bao gồm lương của người đó ở thời điểm được xác định trong Quyết định hoàn trả và các loại phụ cấp khác (nếu có) theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.

Trường hợp người thi hành công vụ có lỗi vô ý gây ra thiệt hại, nếu số tiền bồi thường thực tế đã chi trả dưới 30 triệu đồng thì mức hoàn trả được xác định tối đa không quá 1 tháng lương của người đó tại thời điểm quyết định việc hoàn trả; nếu số tiền bồi thường từ 30 triệu đồng đến dưới 100 triệu đồng thì mức hoàn trả tối thiểu là 1 tháng lương và tối đa không quá 2 tháng lương; nếu số tiền bồi thường vượt 100 triệu đồng, mức hoàn trả tối đa không quá 3 tháng lương.

Trường hợp người thi hành công vụ có lỗi cố ý gây ra thiệt hại nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu số tiền bồi thường thực tế đã chi trả dưới 100 triệu đồng thì mức hoàn trả tối thiểu là 3 tháng lương và tối đa không quá 12 tháng lương; nếu số tiền bồi thường từ trên 500 triệu đồng thì mức hoàn trả tối đa không quá 36 tháng lương.

Hội đồng xem xét trách nhiệm hoàn trả căn cứ vào điều kiện kinh tế, thu nhập thực tế, số lượng đối tượng thuộc phạm vi giảm trừ gia cảnh theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập cá nhân của người có trách nhiệm hoàn trả đã gây ra thiệt hại để xem xét, quyết định phương thức hoàn trả một lần hoặc nhiều lần.

Người có trách nhiệm hoàn trả đã nghỉ hưu hoặc đã chuyển công tác sang cơ quan khác trong bộ máy nhà nước thì việc xem xét trách nhiệm hoàn trả của họ vẫn thực hiện theo quy định nêu trên. Trường hợp người có trách nhiệm hoàn trả đã được cơ quan có trách nhiệm bồi thường thông báo đến lần thứ ba về việc hoàn trả mà cố ý không thực hiện nghĩa vụ hoàn trả thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường phối hợp với cơ quan bảo hiểm xã hội đang trả lương hưu cho người đó hoặc cơ quan nhà nước đang quản lý người đó thu hồi số tiền hoàn trả bằng cách trừ dần vào lương hưu hàng tháng hoặc trừ dần vào lương hàng tháng theo mức từ 10% - 30% lương hưu hoặc lương hàng tháng của người đó.

Trường hợp Quyết định hoàn trả được ban hành trước khi người có trách nhiệm hoàn trả chết và người đó có tài sản thừa kế và người thừa kế, thì những người thừa kế di sản của người đó phải thực hiện nghĩa vụ hoàn trả theo quy định của pháp luật thừa kế. Nếu người có trách nhiệm hoàn trả chết trước khi cơ quan có trách nhiệm bồi thường ban hành Quyết định hoàn trả thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường không xem xét trách nhiệm hoàn trả đối với người đó.

Thông tư Liên tịch này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 8-3-2014.

PHƯƠNG DUNG (thực hiện)

Chia sẻ bài viết