11/01/2009 - 20:30

Tính pháp lý của thủ tục đăng ký kết hôn

Hỏi: Năm 2000, anh T và chị G cưới nhau, có làm “Tờ khai đăng ký kết hôn”. Vì lý do riêng của một bên, nên dù có thời gian chung sống vợ chồng với nhau nhưng hai bên không cùng nhau đến cơ quan làm thủ tục đăng ký kết hôn. Không biết từ khi nào, cán bộ tư pháp phường cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn (ĐKKH) ghi thời điểm năm 2002 theo yêu cầu của chị G, trong giấy chứng nhận có chữ ký cho là của anh T, nhưng anh T không thừa nhận và không tự nguyện thực hiện. Khi anh T biết và tìm hiểu thì thấy: không có một thủ tục hay bút tích nào ghi chép vào hồ sơ lưu trữ trong việc thực hiện thủ tục trên tại cơ quan cấp giấy. Sau đó, cán bộ tư pháp đề nghị chị G viết tường trình để trình bày hoàn cảnh khi cấp giấy- thời điểm viết tường trình năm 2008.

Như vậy, Giấy chứng nhận ĐKKH trên được cán bộ tư pháp phường cấp trong trường hợp này có được công nhận hợp pháp không?

NGỌC EM (Bình Thủy)

Vấn đề này, Luật sư Ngô Công Minh, Cộng tác viên Trung tâm trợ giúp pháp lý TP Cần Thơ, trả lời như sau:

Đối với công dân trong nước việc ĐKKH thuộc thẩm quyền của UBND cấp xã, nơi cư trú của bên nam hoặc bên nữ thực hiện việc ĐKKH. (Khoản 1 Điều 17 Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27-12-2005 của Chính phủ).

Khi ĐKKH hai bên nam nữ phải nộp tờ khai (theo mẫu quy định) và xuất trình giấy chứng minh nhân dân.

Trong trường hợp một người cư trú ở xã, phường này nhưng ĐKKH tại xã phường, thị trấn khác thì phải có xác nhận của UBND cấp xã nơi cư trú về tình trạng hôn nhân của người đó.

Việc xác nhận tình trạng hôn nhân nói trên có thể xác nhận trực tiếp vào tờ khai ĐKKH hoặc bảng giấy xác nhận tình trạng hôn nhân theo quy định. Việc xác nhận tình trạng hôn nhân có giá trị 6 tháng kể từ ngày xác nhận.

Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, nếu xét thấy hai bên nam nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân gia đình thì UBND cấp xã đăng ký kết hôn cho hai bên nam, nữ.

Trong trường hợp cần phải xác minh, thì thời hạn nói trên được kéo dài thêm không quá 5 ngày.

Khi đăng ký kết hôn, hai bên nam nữ phải có một đại diện UBND cấp xã yêu cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên đồng ý kết hôn thì cán bộ tư pháp hộ tịch ghi vào sổ ĐKKH và giấy chứng nhận kết hôn. Hai bên nam, nữ ký vào giấy chứng nhận kết hôn và sổ ĐKKH, chủ tịch UBND cấp xã ký và cấp cho mỗi bên vợ, chồng một bản chính giấy chứng nhận kết hôn, giải thích cho hai bên về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình. Bản sao giấy chứng nhận kết hôn được cấp theo yêu cầu của vợ, chồng (Điều 18 Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27-12-2005 của Chính phủ).

Như vậy, nếu năm 2000 một trong hai bên lập tờ khai ĐKKH mà đến năm 2002 mới lập thủ tục ĐKKH tại UBND xã là không đúng với quy định tại Điều 18 của NĐ 158/2005/NĐ-CP ngày 27-12-2005 của Chính phủ về thủ tục ĐKKH. Bởi lẽ, khi lập tờ khai ĐKKH thì cấp có thẩm quyền đã xác nhận tình trạng hôn nhân có giá trị về mặt pháp lý trong thời gian 6 tháng kể từ ngày ký xác nhận.

Do vậy, khi cấp có thẩm quyền phát hiện giấy chứng nhận kết hôn được cấp không đúng thủ tục mà pháp luật hộ tịch quy định thì sẽ bị thu hồi xử lý theo quy định.

P.Y (thực hiện)

Chia sẻ bài viết