15/10/2025 - 15:23

Tinh gọn tổ chức bộ máy - Một cuộc cách mạng để vươn mình trong kỷ nguyên mới 

Qua gần 40 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn, “đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Với cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế đã đạt được, đất nước Việt Nam đang vươn mình mạnh mẽ trong thế kỷ XXI, hướng đến hai mục tiêu, hai dấu mốc quan trọng: Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa XHCN Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Cải cách bộ máy chính trị đảm bảo tinh, gọn, mạnh là yêu cầu thiết yếu trong “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam” có thể hiểu là kỷ nguyên vươn mình, bứt phá và phát triển của dân tộc, để vượt hẳn lên để làm giàu cho dân tộc, là kỷ nguyên văn minh hiện đại, là kỷ nguyên giàu có và thịnh vượng.

“Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam” là đòi hỏi tất yếu, khách quan và là kết quả tất yếu của những thành công trước đây mở ra cho dân tộc; đánh dấu thời kỳ phát triển mới của đất nước, phù hợp với quy luật khách quan của đất nước và thời đại, với tiến trình phát triển chung vì những mục tiêu cao cả của nhân loại. Lý luận về “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam” không phải là sự phủ nhận sạch trơn lý luận đã có mà là sự kế thừa, bổ sung, phát triển và hoàn thiện những thành tựu lý luận đã đạt được, mang tính chất “đi trước, mở đường” cho thời kỳ phát triển mới. “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam” đòi hỏi tư duy mới tiếp tục tìm tòi, nhận thức, đột phá hơn; cách thức tổ chức, thực hiện nhiệm vụ chiến lược mạnh mẽ, quyết liệt để đạt mục tiêu nhanh hơn, sớm hơn. Theo đó, “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam” là kỷ nguyên phát triển đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, cầm quyền, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu.

Cơ sở lý luận của “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam” là sự kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Cùng với đó, phải luôn bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hiệp Quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi; đồng thời, tiếp tục đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó, phát triển kinh tế-xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.

Tư duy lý luận về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc chính là sự kế thừa, phát triển nhận thức, tư duy lý luận về giai đoạn phát triển mới của đất nước và của dân tộc Việt Nam. Hành trang bước vào “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”, như Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định, là tinh thần yêu nước, tự tin, tự chủ, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và văn hóa, con người Việt Nam, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, lấy nguồn lực nội sinh, nguồn lực con người là nền tảng, khoa học-công nghệ và đổi mới sáng tạo là tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững, là đột phá để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Cuộc “cách mạng” tinh gọn bộ máy, một yêu cầu cấp thiết, khách quan

Ngay từ Đại hội Đảng VI (năm 1986), khi tiến hành công cuộc đổi mới, chuyển từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế theo thể chế thị trường, Đảng ta đã xác định, đi kèm với đổi mới kinh tế phải đổi mới bộ máy nhà nước. Đảng đã liên tục ban hành nhiều nghị quyết, kết luận để lãnh đạo thực hiện chủ trương đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, tổ chức bộ máy hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, việc triển khai Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25-10-2017 đã đạt được một số kết quả quan trọng, bước đầu tạo chuyển biến tích cực trong đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan, đơn vị, tổ chức trong hệ thống chính trị. Tiếp theo đó, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra định hướng phát triển đất nước đến năm 2030, đó là “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước”.

Tuy nhiên, vẫn tồn tại những hạn chế: Tổ chức của hệ thống chính trị vẫn còn khá cồng kềnh, nhiều tầng nấc; chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức thành viên vẫn còn tình trạng trùng lặp, chồng chéo. Việc hoàn thiện mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị cho phù hợp với tình hình thực tiễn còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu. “Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa có lúc, có nơi chưa được quan tâm phát huy đầy đủ”; công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng còn có hạn chế. Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị còn chậm đổi mới, có mặt còn lúng túng. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả. Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vẫn còn những hạn chế, bất cập, có mặt chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, quản lý và bảo vệ đất nước trong tình hình mới. Tổ chức bộ máy nhà nước, hệ thống pháp luật còn một số bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Việc đổi mới tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội có mặt chưa theo kịp yêu cầu của tình hình mới, tình trạng hành chính hóa trong hoạt động vẫn chậm được khắc phục. Chi phí cho tổ chức và hoạt động bộ máy của hệ thống chính trị nói chung, bộ máy nhà nước nói riêng từ nguồn ngân sách nhà nước khá lớn, chiếm một tỷ lệ rất cao (khoảng 70%) ngân sách nhà nước hằng năm.

Những bất cập, hạn chế trong tổ chức và hoạt động của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, nếu chậm được khắc phục sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến tiến trình vươn mình của dân tộc trong kỷ nguyên mới.

Thực tiễn đổi mới cho thấy hệ thống chính trị của Việt Nam do Đảng lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối đã rất thành công trong tiến trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhờ sự vào cuộc quyết liệt và nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị, toàn dân, toàn quân ta trong triển khai thực hiện đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, được khẳng định bằng những kết quả cụ thể trên nhiều lĩnh vực. Quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường được chú trọng, bảo đảm hài hòa với phát triển kinh tế và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Vai trò của văn hóa là nền tảng tinh thần, là nguồn lực nội sinh, là động lực đột phá cho phát triển đất nước được phát huy mạnh mẽ. An sinh xã hội được bảo đảm, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng lên với tinh thần “không để ai bị bỏ lại phía sau”. Nền kinh tế có bước phát triển khá ấn tượng, lĩnh vực ngoại giao có những bước tiến vượt bậc, các cường quốc như Mỹ, Trung Quốc, Nga... đều nâng lên quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, và đã thiết lập quan hệ với gần 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường (theo định hướng xã hội chủ nghĩa) có những quy luật của nó, chúng ta phải tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị: vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, sự quản lý của Nhà nước để khai thác được tối đa nguồn lực và cơ hội phát triển đất nước, nhất là trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sự xuất hiện của trí tuệ nhân tạo (AI) đang làm thế giới thay đổi nhanh chóng.

Đất nước ta đang bước vào giai đoạn hội nhập và phát triển mạnh mẽ.

Trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn hội nhập và phát triển mạnh mẽ, việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, nhất là trong bộ máy nhà nước đã trở thành một nhiệm vụ đặc biệt cấp bách, tạo ra sự chủ động, sáng tạo, đột phá nhằm đáp ứng những yêu cầu của thực tiễn, đồng thời nâng cao năng lực quản lý và điều hành quốc gia. Đây không chỉ đơn thuần là một bước cải cách hành chính mang tính kỹ thuật mà còn thể hiện quyết tâm chính trị sâu sắc, phản ánh trí tuệ và tầm nhìn chiến lược của Đảng về lãnh đạo đất nước.

Trong bài viết “Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả” mới đây, Tổng Bí thư Tô Lâm yêu cầu Trung ương phải gương mẫu, các ban của Đảng phải gương mẫu, Quốc hội gương mẫu, Chính phủ gương mẫu. Không tinh gọn bộ máy không phát triển được.

Thời điểm kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng và 100 năm thành lập nước không còn xa, để đạt được các mục tiêu chiến lược, không chỉ đòi hỏi những nỗ lực vượt bậc mà còn không cho phép chúng ta chậm trễ, lơi lỏng, thiếu chính xác, thiếu đồng bộ, thiếu nhịp nhàng trên từng bước đi. Muốn vậy, cần khẩn trương thực hiện “cách mạng” về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.

Trong bài viết với tựa đề “Tinh - Gọn - Mạnh - Hiệu năng - Hiệu lực - Hiệu quả”, Tổng Bí thư Tô Lâm trích dẫn câu nói của V.I Lênin về cải tiến bộ máy Nhà nước rằng: “Phải tuân theo quy tắc này: Thà ít mà tốt... Tôi biết rằng giữ vững quy tắc ấy và vận dụng được nó vào tình hình thực tế của chúng ta là khó khăn... Tôi biết rằng sẽ phải kháng cự một cách mãnh liệt, sẽ phải tỏ ra kiên trì phi thường... Song tôi vẫn tin chắc rằng chỉ có tiến hành công tác đó, chúng ta mới có thể xây dựng được một nước cộng hòa thật sự xứng danh là nước Cộng hòa XHCN Xô-Viết”.

Từ việc viện dẫn câu nói trên, Tổng Bí thư khẳng định, xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp, tất cả vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, sớm sánh vai với các cường quốc năm châu.

Phát biểu tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18 ngày 25-10-2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tinh gọn bộ máy hệ thống chính trị, Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ rõ: “Công việc phía trước rất bộn bề, khẩn trương. Thời gian không chờ đợi chúng ta. Đất nước đang đứng trước cánh cửa lịch sử bước vào kỷ nguyên vươn mình. Những công việc chúng ta làm hôm nay, sẽ quyết định tương lai. Chậm trễ là có lỗi với nhân dân. Tôi đề nghị các đồng chí từ Trung ương đến cơ sở có mặt tại hội nghị hôm nay phát huy cao độ tinh thần trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và nhân dân, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo với quyết tâm cao nhất để hoàn thành sớm việc tinh gọn tổ chức, bộ máy hệ thống chính trị; góp phần tăng tốc, bứt phá vượt các mục tiêu, nhiệm vụ của năm 2024, 2025 và cả nhiệm kỳ Đại hội XIII; chuẩn bị thật tốt đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng”.

Tạo niềm tin và sự đồng sức, đồng lòng toàn xã hội

Cuộc “cách mạng” tinh gọn bộ máy, tinh giản biên chế đang được triển khai từ Trung ương đến địa phương một cách đồng bộ, khẩn trương, quyết liệt, với quyết tâm cao nhất. Đến nay, việc thực hiện không còn là “nghiên cứu, thí điểm, từng bước” mà ấn định các mốc thời gian, tiến độ rất rõ ràng, phạm vi bao quát, đồng bộ. Hội nghị Trung ương Đảng khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 56-NQ/TW ngày 25-11-2024, xác định quyết tâm chính trị cao nhất trong triển khai tổng kết Nghị quyết 18; giao Bộ Chính trị, Ban Chỉ đạo Trung ương về tổng kết Nghị quyết 18 xem xét, quyết định sắp xếp theo thẩm quyền đối với những cơ quan, tổ chức đã có phương án chuẩn bị kỹ lưỡng.

Trước yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ phát triển mới, đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, Bộ Chính trị xác định, việc tổng kết Nghị quyết 18 và sắp xếp, hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, là cuộc “cách mạng” về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, cần thống nhất rất cao về nhận thức và hành động.

Tại sao cần đề ra mốc thời gian thực hiện với tiến độ khẩn trương như vậy? Thực tế cho thấy, trong công tác sắp xếp bộ máy, nếu không rõ ràng về tiến độ, mốc thời gian thì các cấp, các ngành dễ kéo dài. Trong khi chúng ta đã có 7 năm để nghiên cứu, đánh giá, kể từ khi Nghị quyết 18 của Trung ương khóa XII được ban hành năm 2017. Đó đã là một quá trình dài, đã đến lúc không thể để chậm trễ thêm. Đặc biệt, năm 2025 sẽ diễn ra đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV, điều này đòi hỏi việc sắp xếp bộ máy phải hoàn thành trước để việc đại hội thuận tiện, nhất là liên quan công tác nhân sự.

Tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả - Phương châm hành động đúng đắn

Quan điểm “Tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả” do Tổng Bí thư Tô Lâm nêu ra đã trở thành kim chỉ nam quan trọng cho việc xây dựng một bộ máy nhà nước tinh gọn, phù hợp với yêu cầu phát triển của thời đại. Đây không chỉ là một định hướng cải cách hành chính mà còn là trọng điểm chiến lược để tạo dựng một hệ thống quản lý nhà nước khoa học, minh bạch, tập trung vào giá trị thực chất nhằm tạo nền tảng vững chắc cho việc giải phóng, phát triển lực lượng sản xuất xã hội, tăng cường sức sống cho hệ thống quản lý điều hành đất nước, đó là nguyên tắc quan trọng và cũng là điều kiện tiền đề cho việc phát triển hơn nữa lao động, tri thức, kỹ thuật, công nghệ, để không ngừng tạo của cải phục vụ xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân.

Sắp xếp đơn vị hành chính các cấp và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp tạo nền tảng vững chắc đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới

Thế giới đang trong thời kỳ thay đổi có tính thời đại, từ nay đến năm 2030 là giai đoạn quan trọng nhất để xác lập trật tự thế giới mới. Sự biến chuyển có tính thời đại đem đến thời cơ, thuận lợi mới, đồng thời cũng có nhiều thách thức, trong đó mặt thách thức sẽ lớn hơn và thời cơ mới còn có thể xuất hiện trong khoảnh khắc giữa những thay đổi đột biến trong cục diện thế giới.

Hiện nay là thời điểm ý Đảng hòa quyện với lòng dân trong khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, sớm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, sánh vai với các cường quốc năm châu.

Có thể thấy, đây là thời điểm “hội tụ” tổng hòa các lợi thế, sức mạnh để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc tiếp sau kỷ nguyên độc lập, tự do, xây dựng chủ nghĩa xã hội và kỷ nguyên đổi mới. Tình hình mới diễn ra trong thực tiễn trên đặt ra nhiệm vụ cấp bách đối với việc tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả.

Chủ trương sắp xếp đơn vị hành chính các cấp và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp có thể coi là một cuộc cách mạng, là bước đột phá về thể chế chuẩn bị cho “tầm nhìn trăm năm” phát triển đất nước. Bởi vì:

Thứ nhất, kiến tạo không gian phát triển mới, thúc đẩy kinh tế - xã hội.

Sắp xếp đơn vị hành chính các cấp và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp nhằm tạo ra không gian mới, vì lợi ích thiết thực, lâu dài của nhân dân và tạo ra động lực mạnh mẽ để các địa phương, các vùng và đất nước phát triển bền vững. Đó là căn cứ vào không gian, tiềm năng, dư địa phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương và chú trọng đến quy hoạch tổng thể quốc gia, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; tổ chức lại không gian phát triển của mỗi địa phương, tạo ra sự thay đổi tích cực, phát huy nguồn lực (về đất đai, dân số, mở rộng không gian để quy hoạch), tiềm năng phát triển của địa phương; đồng thời tinh gọn bộ máy, giảm biên chế, nâng cao chất lượng hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức, tiết kiệm kinh phí đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc. Tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; đồng thời góp phần đẩy mạnh quản trị địa phương trước yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Hạn chế việc đầu tư dàn trải; xóa bỏ sự cạnh tranh không lành mạnh và các xung đột về lợi ích cục bộ giữa các địa phương.

Thứ hai, tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp phù hợp với xu hướng phát triển hiện nay của đa số các nước trên thế giới.

Mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp khá phổ biến trên thế giới hiện nay. Phần lớn các quốc gia hiện nay theo xu hướng tiến hành cải tổ hành chính nhằm thu gọn lực lượng tổ chức chính quyền địa phương. Mặc dù mỗi quốc gia có cách thức, lộ trình cải cách khác nhau xong đều hướng tới mục tiêu chung là tinh gọn tổ chức bộ máy chính quyền địa phương, nâng cao hiệu quả hoạt động và chất lượng phục vụ người dân của bộ máy chính quyền địa phương các cấp. Mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp có ưu điểm lớn là cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, phân bổ quyền lực và trách nhiệm rõ ràng giữa các cấp quản lý, mang lại nhiều lợi ích. Do đó, chủ trương tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp ở nước ta trong giai đoạn tới hoàn toàn phù hợp với xu hướng chung trên thế giới đồng thời nhằm mục đích lớn là tạo nên bộ máy chính quyền tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, tạo tiền đề cho việc triển khai phương thức quản trị mới, hiện đại, linh hoạt. 

Thứ ba, bộ máy tinh gọn, phân quyền rõ ràng, đội ngũ tinh thông, hoạt động hiệu quả, tiết kiệm ngân sách và tăng cường khả năng cung cấp dịch vụ công, phục vụ nhân dân tốt hơn.

Việc sắp xếp đơn vị hành chính các cấp và xây dựng mô hình chính quyền địa phương 02 cấp bảo đảm tính tổng thể, đồng bộ, thống nhất trong hệ thống chính trị; quá trình thực hiện phải thận trọng, kỹ lưỡng, khoa học, có cách làm phù hợp, chặt chẽ, hiệu quả, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Đồng thời, kết hợp hài hòa giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát triển làm cơ sở đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương. Sắp xếp lại tổ chức bộ máy, đơn vị hành chính các cấp là cơ hội để sàng lọc lại đội ngũ cán bộ, xây dựng đội ngũ thực sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn tới; góp phần tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương, tinh giản biên chế; tiết kiệm chi cho ngân sách, góp phần vào cải cách chính sách tiền lương, nâng cao đời sống cho cán bộ, công chức và nâng cao chất lượng, trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ, công chức các cấp.

Thực hiện thay đổi nêu trên, chúng ta hướng đến một hệ thống chính trị và bộ máy công quyền hoạt động hiệu lực hơn, với các cấu phần vận hành trơn tru, thông suốt, nhất quán, đồng bộ và nhịp nhàng ở mọi cấp độ. Tính hiệu quả không chỉ thể hiện ở việc giảm chi phí từ ngân sách cho hoạt động của hệ thống chính trị mà hơn thế, sự vận hành của hệ thống chính trị phải trở thành một trong những động lực thúc đẩy tốc độ phát triển nhanh, bền vững của đất nước thời gian tới.

Tinh gọn bộ máy để tạo đột phá về chất lượng hoạt động

Chưa khi nào cụm từ "cách mạng tinh gọn bộ máy" lại trở thành một từ khóa thu hút nhiều sự chú ý của dư luận trong nước như hiện nay. Sự chuyển động dứt khoát, dồn dập, và mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị trong thời gian vận hành mô hình chính quyền 2 cấp từ ngày 1-7-2025 đến nay đang truyền cảm hứng tích cực và lan tỏa niềm tin trong xã hội về một quyết tâm, nỗ lực đổi mới thực sự cả về tư duy và hành động để củng cố, tăng cường sức mạnh của hệ thống chính trị, đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới.

Thực tiễn gần 40 năm đổi mới cho thấy, hệ thống chính trị của Việt Nam do Đảng lãnh đạo đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức trong tiến trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa ,lịch sử, được khẳng định bằng những kết quả cụ thể trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, trước kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc cần thực hiện cuộc cách mạng sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị, điều chỉnh địa giới, để tạo nền tảng, mở đầu, tạo động lực phát triển mới.

Tại Báo cáo số 5392/BC-BNV ngày 28-10-2022 của Bộ Nội vụ về một số nội dung liên quan đến nhóm vấn đề chất vấn thuộc lĩnh vực Nội vụ tại kỳ họp thứ Tư, Quốc hội khóa XV, cho thấy: Số lượng đơn vị hành chính (ĐVHC) cấp huyện trong cả nước từ 713 đơn vị giảm xuống còn 705 đơn vị (giảm 8 huyện); số lượng ĐVHC cấp xã trong cả nước từ 11.160 đơn vị còn 10.599 đơn vị (giảm 561 xã); số lượng thôn, tổ dân phố từ 136.824 giảm xuống còn 90.508 đơn vị (giảm 46.316 đơn vị).

Về biên chế công chức cấp huyện từ 2.411 giảm xuống còn 2.120 (giảm được 291); cán bộ, công chức cấp xã từ 20.141 giảm xuống còn 13.484 (giảm được 6.657); người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã từ 13.893 giảm xuống còn 6.056 (giảm được 7.837).

Việc thực hiện sắp xếp ĐVHC cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2019 - 2021 đã tiết kiệm chi cho ngân sách nhà nước được khoảng 2.008,63 tỉ đồng. Trong đó, giảm chi của chính quyền cấp huyện và cấp xã là 1.132,63 tỉ đồng (gồm giảm chi tiền lương và phụ cấp là 787,84 tỉ đồng, giảm chi hoạt động là 344,79 tỉ đồng) và giảm chi đối với các khoản phụ cấp cho người hoạt động không chuyên trách ở thôn, tổ dân phố được khoảng 876 tỉ đồng.

Thực hiện sắp xếp giai đoạn 2023-2024, cả nước giữ nguyên số lượng 63 tỉnh, thành phố; giảm còn 696 đơn vị hành chính cấp huyện (giảm 9 đơn vị); giảm còn 10.035 đơn vị hành chính cấp xã (giảm 563 đơn vị).

Chính phủ nhiệm kỳ 2021-2026 sau khi mtinh gọn bộ máy hiện còn 14 bộ, 3 cơ quan ngang bộ và 5 cơ quan thuộc Chính phủ (giảm 5 đầu mối so với đầu nhiệm kỳ); giảm 13/13 tổng cục và tương đương; giảm 519 cục và tổ chức tương đương (giảm 77,6%); giảm 219 vụ và tương đương (giảm 54,1%); giảm 3.303 chi cục và tương đương (giảm 91,7%); giảm 203 đơn vị sự nghiệp công lập.

Hội nghị Trung ương 11 khóa XIII (tháng 4-2025) đã thống nhất tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp, kết thúc hoạt động của cấp huyện từ ngày 1-7-2025. Theo Nghị quyết số 202/2025/QH15, ngày 12-6-2025 của Quốc Hội về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh. Việt Nam có 34 nđơn vị hành chính cấp tỉnh bao gồm 28 tỉnh và 6 thành phố trực thuộc trung ương. Đây có thể coi là giai đoạn hai của cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy với điểm nhấn là tái cấu trúc mô hình chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, kết thúc hoạt động của 696 đơn vị hành chính cấp huyện, tổ chức lại cấp xã. Sau khi sắp xếp, cả nước giảm 6.714 đơn vị hành chính cấp xã, từ 10.035 xuống còn 3.321 đơn vị (còn 2.621 xã, 687 phường và 13 đặc khu). Tỷ lệ giảm trung bình là 66,91%, đáp ứng yêu cầu của Trung ương là giảm từ 60% - 70%. Thể hiện khát vọng mạnh mẽ trong việc kiến ktaoj một hệ thống quản trị hiện đại, linh hoạt và thực sự gần dân.

Các chuyên gia kinh tế ước tính việc sáp nhập, tinh gọn tổ chức bộ máy sẽ giúp tiết kiệm khoảng 262.500 tỷ đồng mỗi năm, chiếm khoảng 3,8% GDP cả nước. Đây là nguồn lực kinh tế rất lớn để phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.

Hiện chi ngân sách cho bộ máy hành chính nhà nước ở nước ta khoảng 65% tổng chi thường xuyên, tương đương hơn 700.000 tỷ đồng mỗi năm. Với 63 tỉnh thành, 705 đơn vị hành chính cấp huyện và 10.599 đơn vị cấp xã, mỗi đơn vị huyện khoảng 50 tỉ đồng/năm, trong khi cấp xã là khoảng 5 tỷ đồng một năm để duy trì hoạt động. Do vậy khi thực hiện Kết luận 127, nguồn ngân sách tiết kiệm có thể được đầu tư trở lại cho an sinh xã hội. Chính sách miễn giảm học phí vừa được triển khai là minh chứng rõ ràng. Với 24.000 tỉ đồng được phân bổ, chính sách này mang lại lợi ích cho hơn 17 triệu học sinh trên cả nước.

Hiện tại, Việt Nam chi khoảng 14,2% ngân sách quốc gia cho giáo dục, thấp hơn so với Singapore (20%) và Nhật Bản (15,5%). Với nguồn tiết kiệm từ cải cách hành chính, con số này có thể tăng lên 18-20%. Tương tự với y tế, hiện nay chi y tế công của Việt Nam chỉ chiếm khoảng 3,7% GDP, thấp hơn so với mức trung bình 6,5% của các nước OECD. Nguồn ngân sách tiết kiệm sẽ giúp tăng mức chi lên 5,5-6% GDP, mở rộng diện bao phủ bảo hiểm y tế từ 91% hiện nay lên 98-99%, đồng thời giảm gánh nặng chi trực tiếp từ người dân.

Việc sáp nhập đơn vị hành chính sẽ mang lại hiệu quả về mặt quản lý và tạo điều kiện phân bổ ngân sách hợp lý hơn cho an sinh xã hội. Đây sẽ là nguồn lực quan trọng giúp Việt Nam thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân và rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển. Thực hiện cơ cấu lại và nâng cao chất lượng, trách nhiệm công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Nâng cao năng lực quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả. Việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy giúp tối ưu hóa nguồn lực, sàng lọc đội ngũ, cơ cấu lịa nguồn nhân lực, tạo điều kiện để cán bộ, công chức, viên chức phát huy năng lực, trình độ chuyên môn trong môi trường làm việc chuyên nghiệp, hiện đại. Đồng thời, nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý và tổ chức thực hiện của hệ thống chính trị, mang lại hiệu quả trong chỉ đạo tập trung trung từ trung ương tới địa phương.

Kết quả khảo sát về mức độ thể hiện sự linh hoạt, nhạy bén và thích nghi của hoạt động lãnh đạo tại cơ quan nhà nước ở nước kta, cho thấy 91,2% đánh giá hoạt động lãnh đạo trong phát triển kinh tế đã thể hiện sự điều hành linh hoạt, nhạy bén và thích nghi. Việc giảm tầng nấc trung gian, đơn giản hóa thủ tục hành chính, rút ngắn quá trình ra quyết định và trao quyền nhiều hơn cho địa phương đã giúp hệ thống quản lý vận hành linh hoạt hơn, hiệu quả hơn, đồng thời nâng cao năng lực điều hành của chính quyền cấp cơ sở. Đây là nền tảng quan trọng để Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và đảm bảo sự minh nạch, hiệu quả trong quản lý Nhà nước, quyết tâm mạnh mẽ với mục tiêu xây dựng Nhà nước kiến tạo, liêm chính, hành động và phục vụ nhân dân.

Cải thiện chất lượng dịch vụ công, thúc đẩy chuyển đổi số, tạo động lực cho đổi mới và tăng cường niềm tin của doanh nghiệp, người dân vào bộ máy chính quyền

“Chuyển đổi số, cùng với khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo (AI) đang trở thành động lực mạnh mẽ định hình tương lai”.

Quan điểm đó được cụ thể hóa trong Nghị quyết 57-NQ/TW của Bộ Chính trị, xác định chuyển đổi số là đột phá chiến lược; đặt mục tiêu đến năm 2030, kinh tế số đạt 30% GDP và đến 2045 đạt 50% GDP. Chính phủ đã triển khai nhiều chương trình, kế hoạch, gần đây nhất là Nghị quyết 71/NQ-CP về các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số.

Năm 2024 ghi nhận nhiều kết quả nổi bật: Xếp hạng Chính phủ số của Việt Nam tăng 15 bậc, hồ sơ trực tuyến toàn trình đạt gần 40%; doanh thu ngành CNTT đạt 2,772 triệu tỷ đồng (tăng 24%), xuất khẩu phần cứng – điện tử tăng 29%.

Hạ tầng số cũng được mở rộng mạnh mẽ: 99,3% thôn, bản có mạng di động băng rộng, tốc độ Internet di động đạt 146,64 Mbps (xếp hạng 20 thế giới), phủ sóng 5G đạt 26%. Đáng chú ý, 21,8 triệu chứng thư số đã được cấp, cùng 64 triệu tài khoản VNeID và 17,5 triệu thẻ căn cước công dân gắn chip – nền tảng cho các giao dịch điện tử an toàn, tiện lợi.

Thể chế số - nền móng cho một Việt Nam kiến tạo và tự cường

Việt Nam đang hướng tới mục tiêu không chỉ “thích ứng” mà còn “bắt kịp, tiến cùng và vượt lên” trong kỷ nguyên số. Muốn vậy, hành động quyết liệt về mặt thể chế là yêu cầu cấp thiết.

Việc cắt giảm thủ tục hành chính, xóa bỏ điểm nghẽn trong hệ thống quản lý đã tạo thuận lợi cho môi trường đầu tư, kinh doanh, thu hút nhiều nguồn vuốn đầu tư nước ngoài. Chiến lược quốc gia về chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ thông tin, phong trào “Bình dân học vụ số” được hưởng ứng rộng rãi trong nhân dân.

Sự minh bạch và hiệu quả tạo sự đồng thuận trong xã hội, khơi dậy tinh thần và niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Những kết quả này là minh chứng rõ nét cho tính đúng đắn của chủ trương tinh gọn bộ máy mà Đảng đã đề ra.

Thách thức trong đổi mới, sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị

Thách thức về mặt tổ chức là một trong những vấn đề khó khăn nhất. Tình trạng chồng chéo, trùng lặp chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị hiện nay đang diễn ra khá phổ biến. Đây là một trong những thách thức lớn, đòi hỏi phải có giải pháp quyết liệt để khắc phục.

Thứ hai, thách thức về mặt nhân sự. Tinh gọn bộ máy đồng nghĩa với việc cắt giảm biên chế và sắp xếp lại đội ngũ nhân sự. Đây là vấn đề nhạy cảm, ảnh hưởng trực tiếp, tác động đến công việc, tâm lý và quyền lợi của cán bộ, công chức.

Thứ ba, thách thức về mặt văn hóa và tư duy. Tâm lý e ngại thay đổi, tư duy “an phận”, sợ khó, tìm cách vụ lợi, né tránh trách nhiệm, thiếu tinh thần đổi mới, sáng tạo vẫn còn là một hiện tượng phổ biến, đặc biệt trong các cơ quan bộ máy vốn có tính ổn định cao. Sự thay đổi đồng nghĩa với việc phá bỏ những “lối mòn”, đòi hỏi sự thích ứng với môi trường làm việc mới, áp lực công việc lớn hơn và yêu cầu về năng lực cao hơn.

Thứ tư, thách thức về chính sách. Mặc dù Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về tinh giản biên chế, song việc thực hiện còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Các quy định cụ thể vẫn còn nhiều bất cập, chưa thực sự phù hợp với thực tiễn, chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc tinh gọn bộ máy.

Việc xây dựng, đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của các thiết chế trong hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả trước yêu cầu mới, cần tập trung vào các vấn đề sau:

Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, với trọng tâm là đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị

Để tiếp tục lãnh đạo, dẫn dắt công cuộc vươn mình của dân tộc trong kỷ nguyên mới, Đảng ta phải tiếp tục tự đổi mới mạnh mẽ tổ chức và hoạt động, thật sự trong sạch, thật sự vững mạnh, ngang tầm với yêu cầu phát triển của đất nước trong thời đại mới. Quán triệt nhất quán quan điểm xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, “Kết hợp hài hòa, chặt chẽ và có hiệu quả giữa xây dựng với chỉnh đốn Đảng; giữa xây dựng Đảng với bảo vệ Đảng. Không ngừng nâng cao năng lực và đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong điều kiện mới. Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị. Hết sức coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng. Kiên định, vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới, thực hiện nghiêm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng”.

Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” để Đảng ta thật sự là “đạo đức, là văn minh”, thật sự là một chính đảng liêm chính theo tư tưởng và phong cách Hồ Chí Minh. Tiếp tục sắp xếp kiện toàn hệ thống tổ chức đảng các cấp, tinh gọn bộ máy các cơ quan tham mưu của Đảng, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tham mưu trong các cơ quan đảng, ngang tầm với yêu cầu xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện mới. Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ để khắc phục tình trạng “đúng quy trình nhưng không đúng người”. “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu các cấp đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”.

Tăng cường dân chủ, đoàn kết thống nhất trong Đảng, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa thực hành dân chủ, củng cố kỷ luật, kỷ cương trong Đảng. Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, với quyết tâm chính trị cao, hành động mạnh mẽ hơn, hiệu quả hơn theo đúng phương châm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”. Đặc biệt là, quyết liệt đấu tranh, ngăn chặn tình trạng lãng phí cả trong khu vực công và khu vực tư, xem cuộc đấu tranh phòng, chống lãng phí là quan trọng và cấp thiết như cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Yếu tố then chốt bảo đảm cho Đảng thật sự là “trí tuệ, lương tâm của thời đại”, là “đạo đức, là văn minh” luôn là phương thức lãnh đạo. Chính vì vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn đặc biệt quan tâm, đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của mình đối với Nhà nước và xã hội. Trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, việc tiếp tục đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng lại càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.

Thực hiện đồng bộ một số giải pháp 

Thực tiễn cho thấy quá trình sắp xếp đơn vị hành chính các cấp và tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp bên cạnh việc mang lại rất nhiều lợi ích nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức trong công tác quản lý nhà nước. Để phát huy hiệu quả của việc sắp xếp đơn vị hành chính các cấp và tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp, cần đẩy mạnh một số giải pháp sau:

Thứ nhất, đảm bảo thống nhất về nhận thức và hành động, quyết tâm chính trị mạnh mẽ, các cấp chính quyền cần thực hiện tốt công tác tuyên truyền, tạo sự đồng thuận cao trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động và nhân dân. Việc sắp xếp đơn vị hành chính các cấp và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp là một chủ trương quan trọng trong cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy, tạo bước chuyển tích cực trong đổi mới nền hành chính quốc gia, phát huy hiệu quả các nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội trên từng địa bàn. Việc sắp xếp đơn vị hành chính các cấp và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp không chỉ nhằm mục tiêu tinh gọn tổ chức bộ máy nhà nước, tinh giảm biên chế, giảm chi phí hành chính trong tổ chức hoạt động của các cấp chính quyền địa phương mà còn nhằm mục tiêu quan trọng tạo không gian lớn hơn, thống nhất và thông suốt để khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, lãng phí nguồn lực, chia nhỏ không gian phát triển hướng tới mục tiêu tạo cân đối, hài hòa hơn trong phân bổ dân cư, lãnh thổ, hạn chế tình trạng chia cắt, manh mún lãnh thổ để thực hiện hiệu quả và thực chất hơn việc phân quyền cho chính quyền địa phương.

Thứ hai, hoàn thiện thể chế pháp luật quy định về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phương thức hoạt động của chính quyền địa phương. Cần xác định rõ đổi mới mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của chính quyền địa phương 2 cấp phù hợp với địa bàn đô thị, nông thôn, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; khắc phục triệt để sự chồng chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp chính quyền địa phương; bỏ cấp trung gian, tinh gọn tổ chức bộ máy, bảo đảm hoạt động thông suốt, hiệu lực, hiệu quả; chính quyền gần dân, sát dân, phục vụ tốt hơn nhu cầu của người dân trên địa bàn, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Đồng thời, trên cơ sở mô hình chính quyền địa phương 2 cấp (gồm: cấp tỉnh và cấp xã), phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của từng cấp chính quyền địa phương theo hướng: (1) Cấp tỉnh tập trung ban hành cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, quản lý vĩ mô, các vấn đề có tính chất liên vùng, liên cơ sở, vượt quá năng lực giải quyết của cơ sở, đòi hỏi chuyên môn sâu và đảm bảo tính thống nhất trên toàn cấp tỉnh; (2) Cấp xã là cấp tổ chức thực hiện chính sách (từ Trung ương và cấp tỉnh), tập trung vào các nhiệm vụ phục vụ người dân, trực tiếp giải quyết các vấn đề của cộng đồng dân cư, cung cấp các dịch vụ công cơ bản, thiết yếu cho người dân trên địa bàn; các nhiệm vụ cần sự tham gia của cộng đồng, phát huy tính chủ động, sáng tạo của cấp cơ sở.

Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh phân quyền, phân cấp triệt để giữa cơ quan nhà nước ở Trung ương với địa phương; giữa chính quyền địa phương cấp tỉnh cho chính quyền địa phương cấp cơ sở theo nguyên tắc “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm” để phát huy tính chủ động, sáng tạo của chính quyền địa phương các cấp, nhằm khơi thông mọi nguồn lực để địa phương phát triển, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Trong đó, cần xác định rõ ràng, minh bạch ba nhóm công việc liên quan đến thẩm quyền của từng cấp chính quyền.

Nhóm các nhiệm vụ, công việc chỉ thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan nhà nước Trung ương. Đây là nhóm những công việc đảm bảo sức mạnh của Nhà nước như quốc phòng, an ninh quốc gia, ngoại giao.

Nhóm các công việc, nhiệm vụ mang tính địa phương hoàn toàn thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương, thông qua phương thức phân quyền cho chính quyền địa phương.

Nhóm các công việc, nhiệm vụ thuộc trách nhiệm của cả các cơ quan Trung ương và trách nhiệm của chính quyền địa phương, được thực hiện thông qua cơ chế phân công, phối hợp giữa Trung ương và địa phương. Các loại nhiệm vụ, trách nhiệm này liên quan nhiều đến vấn đề quản lý ngành và lãnh thổ. Sự kết hợp hiệu quả giữa ngành, lãnh thổ là điều mấu chốt để triển khai tốt các nhiệm vụ, trách nhiệm này.

Thứ tư, nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhằm đáp ứng yêu cầu sau khi sắp xếp, tinh gọn bộ máy đó là đối với CBCCVC cấp tỉnh phải tổng hợp hơn, khái quát hơn, toàn diện hơn; đồng thời có những yếu tố rất cụ thể, thực tiễn. Đối với cán bộ, công chức, viên chức cấp xã - là người trực tiếp làm việc với dân, với doanh nghiệp hay nói cách khác là những cán bộ gần dân nhất và sẽ giải quyết những công việc cụ thể, trực tiếp liên quan đến đời sống của nhân dân. Đồng thời, tiến hành rà soát, đánh giá chất lượng, tiêu chuẩn đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, công chức, viên chức trên cơ sở yêu cầu của vị trí việc làm tại cơ quan, tổ chức, đơn vị mới để thực hiện việc bố trí, sắp xếp nhân sự gắn với tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ. Việc lựa chọn, sắp xếp, bố trí cán bộ, công chức, viên chức lãnh đạo, quản lý phải căn cứ vào năng lực, sở trường, uy tín, kinh nghiệm công tác, kết quả sản phẩm công việc cụ thể phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của tổ chức mới, nhất là đối với người đứng đầu. Triển khai chính sách thu hút, trọng dụng người có tài năng vào làm việc trong khu vực công; nâng cao đạo đức, văn hóa công vụ và thực hiện có hiệu quả cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dàm làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.

Thứ năm, tăng cường sự tham gia của người dân, tổ chức vào quản trị địa phương, tăng cường tính dân chủ và giám sát của nhân dân. Người dân có thể tham gia giám sát chính quyền, dễ dàng phản ánh nhu cầu và quyền lợi của mình. Ngoài ra, người dân cũng có thể tiếp cận chính quyền dễ dàng hơn để phản ánh ý kiến, khiếu nại. Từ đó các cấp, các ngành nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của nhân để có những định hướng phát triển của địa phương. Tiếp cận quản trị địa phương hướng đến bảo đảm quyền tự do của người dân và sự tham gia của người dân với các công việc của chính quyền địa phương một cách dân chủ, đối thoại, thúc đẩy sự phát triển bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường.

Thứ sáu, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số đóng vai trò quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa công tác quản lý nhà nước, là chìa khóa của chính quyền điện tử, tạo cơ sở nền tảng cho xây dựng chính quyền số. Hiện nay, chúng ta đang có nhiều yếu tố thuận lợi để triển khai thực hiện việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy; trong đó, phải kể đến việc ứng dụng những thành tựu tiên tiến, hiện đại của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công cuộc chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số, công dân số... Việc ứng dụng hiệu quả chuyển đổi số, đẩy mạnh giải quyết thủ tục hành chính trực tuyến không địa giới hành chính được xem là chìa khóa trong việc nâng cao chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp của chính quyền cơ sở. Để chính quyền cấp cơ sở giải quyết tốt hơn công việc của người dân, nhất là khi dân số, diện tích tăng lên, việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số mạnh mẽ, toàn diện là yêu cầu bắt buộc. Việc bỏ cấp hành chính trung gian giúp ra quyết định nhanh chóng và cải thiện hiệu quả điều hành. Điều này là phù hợp với xu hướng chuyển đổi số khi nhiều thủ tục hành chính có thể xử lý trực tuyến mà không cần qua cấp trung gian.

Sắp xếp, tinh gọn bộ máy chính trị là xu hướng tất yếu, là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu nhằm xây dựng hệ thống chính trị thực sự tinh gọn, mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới. Đây là cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc trên tất cả các phương diện. Với quyết tâm chính trị cao, với tinh thần đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, chúng ta tin tưởng rằng sẽ thực hiện thành công mục tiêu tinh gọn, góp phần xây dựng bộ máy của hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển và thịnh vượng.

Đại hội XIV của Đảng tới đây cần phải đề ra được định hướng chiến lược, nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để giải phóng toàn bộ sức sản xuất, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, lấy nguồn lực nội sinh, nguồn lực con người là nền tảng, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo là đột phá để đưa đất nước bước vào “Kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc Việt Nam” với những giải pháp, biện pháp, “đúng”, “trúng” và có tính đột phá. “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam” là yêu cầu và nhiệm vụ phát triển đất nước ở tầm cao mới trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; là “con đường ngắn nhất” đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới ở thời khắc lịch sử rất quan trọng, một bước ngoặt lịch sử trong chặng đường cách mạng, chặng đường phát triển của đất nước Việt Nam.

Đây không chỉ là trách nhiệm của Đảng, của Chính phủ, của các cơ quan lãnh đạo mà còn là sự mong mỏi của toàn thể nhân dân chung sức, đồng lòng hướng tới thành quả phát triển mọi mặt như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, y tế... vì một nước Việt Nam hùng cường, nhân dân Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.

Quá trình cải cách này đòi hỏi tầm nhìn chiến lược, sự quyết liệt, đổi mới đồng bộ, dám đương đầu, dũng cảm đối diện để khắc phục khó khăn thách thức, kiên trì tiến hành tinh gọn bộ máy đến cùng, kiên quyết hoàn thành khát vọng, thực hiện bằng được mục tiêu, yêu cầu cao nhất đã đề ra để bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu. Từ đây, mọi người dân Việt Nam, hàng trăm triệu người như một, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng tâm hiệp lực, chung sức đồng lòng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh.

PHẠM NGỌC TRANG

(Ban Kinh tế - Ngân sách, HĐND xã Thạnh Hòa)

Chia sẻ bài viết
Từ khóa
búa liềm vàng