21/06/2022 - 20:29

Tầm nhìn mới thúc đẩy khát vọng vươn lên của ĐBSCL 

GIA BẢO

ÐBSCL có vị trí, vai trò chiến lược đặc biệt quan trọng cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước. Kinh tế - xã hội của vùng đã đạt kết quả khá toàn diện, nhưng vẫn chưa phát huy hết tiềm năng, lợi thế. Ngày 21-6-2022, tại Hội nghị công bố quy hoạch và xúc tiến đầu tư vùng ÐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, do Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì, các đại biểu đã phác thảo bức tranh kinh tế - xã hội mới của một đồng bằng thịnh vượng trong tương lai.       

Lễ trao hồ sơ quy hoạch và công bố cam kết tài trợ thực hiện một số chương trình dự án phát triển hạ tầng triển khai thực hiện quy hoạch vùng ĐBSCL. Ảnh: DƯƠNG GIANG-TTXVN

Đánh thức tiềm năng ĐBSCL

Vùng ÐBSCL là một trong 6 vùng kinh tế - xã hội của cả nước, bao gồm 13 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với tổng diện tích khoảng 40.600km2, chiếm 13% diện tích tự nhiên cả nước. Là vùng đồng bằng lớn nhất, phì nhiêu nhất ở Ðông Nam Á và thế giới; vùng sản xuất và xuất khẩu lương thực, thực phẩm, thủy hải sản và trái cây lớn nhất của cả nước. Tuy nhiên, sự phát triển của vùng chưa tương xứng với tiềm năng, do nguồn lực đầu tư vào vùng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Vì vậy, Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững ÐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu (BÐKH) và Quy hoạch vùng ÐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Nghị quyết số 78/NQ-CP về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở vùng ÐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Quyết định số 825/QÐ-TTg về việc thành lập và ban hành quy chế hoạt động của Hội đồng điều phối vùng ÐBSCL giai đoạn 2020-2025... là tầm nhìn mới, tư duy mới cho sự phát triển thịnh vượng, đưa ÐBSCL trở thành nơi đáng sống trong tương lai. 

Ông Nguyễn Chí Dũng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Ðầu tư (KH&ÐT), cho biết: “Quy hoạch tích hợp ÐBSCL là nhằm cụ thể hóa và triển khai tư duy mới, tầm nhìn mới tại Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước giai đoạn 2021-2030 và các định hướng, chỉ đạo của Ðảng, Nhà nước; từ đó mở ra các cơ hội phát triển mới và định hình các giá trị mới cho vùng”. Theo đó, quy hoạch tích hợp đã xác định 9 đột phá mang tính chiến lược. Cụ thể là: Phát triển vùng ÐBSCL theo hướng bền vững, tăng trưởng xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu, dựa trên ba trụ cột: kinh tế - xã hội môi trường; chú trọng bảo vệ, tôn tạo và phát triển hệ sinh thái tự nhiên hướng tới một mô hình kinh tế xanh, lấy “con người” làm trung tâm. Biến thách thức thành cơ hội, “chủ động sống chung với lũ, ngập, nước lợ, nước mặn”; chuyển đổi mô hình tăng trưởng; cơ cấu lại kinh tế vùng theo hướng kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; công nghiệp năng lượng là đột phá, dịch vụ là bệ đỡ. Thay đổi tư duy về an ninh lương thực trên cơ sở sắp xếp, tổ chức lại phân vùng sản xuất dựa trên tài nguyên nước và thổ nhưỡng. Chuyển đổi mô hình phát triển từ phân tán, nhỏ lẻ sang tập trung cả về nông nghiệp, công nghiệp và đô thị. Phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao thông với vai trò bệ đỡ cho phát triển kinh tế - xã hội và thúc đẩy liên kết vùng.

Tiếp đó là tập trung phát triển hành lang đô thị công nghiệp từ Cần Thơ đến Long An kết nối với TP Hồ Chí Minh và vùng Ðông Nam bộ và hệ thống 8 trung tâm đầu mối về nông nghiệp; phát triển hành lang kinh tế, đô thị dọc sông Tiền - sông Hậu từ An Giang đến Sóc Trăng gắn với phát triển cảng biển Trần Ðề nhằm kết nối, giao thương quốc tế về đường bộ gắn với đường thủy nội địa và hàng hải. Thay đổi tư duy về khai thác, sử dụng tài nguyên nước: coi nước mặn, nước lợ là một nguồn tài nguyên bên cạnh nước ngọt; chuyển từ đáp ứng nhu cầu sang chủ động quản lý nhu cầu về nước; khai thác, sử dụng tài nguyên nước phù hợp với phân vùng chức năng của nguồn nước. Chú trọng bảo tồn các cảnh quan, sinh thái, văn hóa lịch sử, văn hóa dân tộc, văn hóa sông nước đặc thù của vùng. Cuối cùng là tăng cường liên kết phát triển giữa các địa phương trong vùng với TP Hồ Chí Minh và vùng Ðông Nam Bộ; mở rộng giao thương với các nước trong khu vực ASEAN, đặc biệt là các nước thuộc Tiểu vùng sông Mekong nhằm khơi thông, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội.

Ưu tiên nguồn lực cho vùng

Theo Bộ KH&ÐT, để tiếp tục ưu tiên đầu tư cho vùng ÐBSCL, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 973 ngày 8-7-2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 26 ngày 14-9-2020 về các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-2025, trong đó quy định các tiêu chí tính điểm của vùng ưu tiên cao hơn các vùng khác trong cả nước. Cùng với đó, Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 2-4-2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở vùng ÐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã tiếp tục mở ra cơ hội mới để thay đổi diện mạo kinh tế - xã hội ÐBSCL trong tương lai theo hướng phát triển hài hòa, thuận thiên, “toàn diện theo hướng sinh thái, văn minh, bền vững, mang bản sắc sông nước.

Đại biểu dự hội nghị ngày 21-6. 

Tại hội nghị, các đại biểu cho rằng để đạt mục tiêu phát triển toàn diện vùng ÐBSCL, tăng sức chống chịu cho vùng trước các cú sốc từ bên ngoài và giải quyết các thách thức nội tại, cần sự phối hợp giữa các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương; đồng thời cần sự đồng hành của các tổ chức quốc tế để cung cấp nguồn lực tài chính và sự năng động chuyển đổi của doanh nghiệp, người dân ÐBSCL. Ðại diện Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO), cho rằng ÐBSCL có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của quốc gia, JETRO rất ấn tượng với tinh thần khởi nghiệp của các doanh nghiệp khởi nghiệp tại vùng. Hiện các công ty Nhật Bản bắt đầu hợp tác với các công ty Việt Nam; đây là con đường để mở ra những liên kết, khơi dậy những tiềm năng mới cho sự phát triển của ÐBSCL.

Bà Carolyn Turk, Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam, cũng khẳng định: Quy hoạch tổng thể ÐBSCL là bước tiến quan trọng cho sự phát triển của vùng. Ðây là khu vực chịu ảnh hưởng của BÐKH. Quy hoạch đã đưa ra tầm nhìn mới và các bước tiếp cận mới để nâng cao khả năng chống chịu, phát triển bền vững cho vùng. WB có nghiên cứu về đói nghèo, tỷ lệ nghèo đói của vùng tăng trong giai đoạn 2015-2019 và đây là khu vực tăng đói nghèo duy nhất ở Việt Nam. Ðồng thời, các tác động của hạn hán, xâm nhập mặn có thể gây thiệt hại cho vùng đến 1,7 tỉ USD mỗi năm. Vấn đề khác là sự di cư ra khỏi vùng ÐBSCL. Sự gia tăng tác động của BÐKH, ngân sách phải bỏ ra nhiều để xử lý các khó khăn của vùng, cùng với những bất định toàn cầu tạo áp lực để ÐBSCL đạt tốc độ phát triển cao.

Theo bà Carolyn Turk, trước những yếu tố bất định và các khó khăn của vùng, cần tập trung mạnh mẽ vào tính hiệu quả trong quá trình triển khai quy hoạch. Quy hoạch cần gắn liền với các hành động và thời gian thực hiện. Với nhu cầu vốn tối thiểu lên đến 57 tỉ USD từ nay đến năm 2030 để thực hiện các dự án đầu tư tại vùng, phải tính toán hiệu quả sử dụng của mỗi một đồng đô la. Chính phủ cần tính toán, ưu tiên khoản đầu tư nào cần thực hiện từ ngân sách và tính toán hiệu quả của nó. Việc tăng cường đầu tư từ tư nhân cho sự phát triển của vùng cũng cần có cơ chế, chính sách. Vấn đề nữa là cần sự phối hợp các ngành ngang, dọc trong quá trình thực hiện. Có bước tiếp cận toàn thể từ Chính phủ, sự tham gia hợp tác mạnh mẽ từ chính quyền Trung ương và địa phương, các cải cách chính sách đều phải được phối hợp để đưa ra thông tin chính xác trong quá trình ra quyết định; tránh trùng lắp và xung đột xảy ra trong quá trình triển khai. Và trong tương lai bất định, ÐBSCL làm gì để trở thành thực thể sống? Giải pháp là cần có hệ thống giám sát chặt chẽ quy trình triển khai để giám sát tính hiệu quả và kịp thời điều chỉnh chính sách không phù hợp. WB cam kết hỗ trợ Chính phủ Việt Nam trong quá trình triển khai quy hoạch, nâng cao khả năng chống chịu cho ÐBSCL.

Theo định hướng các lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư vào ÐBSCL, gồm: đầu tư PPP phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội; nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp kết hợp du lịch, nông nghiệp giá trị cao; công nghiệp chế biến, công nghiệp chế tạo, các ngành hỗ trợ cho sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản; công nghiệp năng lượng; công nghiệp công nghệ cao; chuyển đổi số; dịch vụ vận tải logistics; dịch vụ y tế, giáo dục; du lịch và bất động sản.

Thủ tướng Phạm Minh Chính:

Vùng ÐBSCL sẽ có sự phát triển mạnh mẽ và đột phá

Các địa phương vùng ÐBSCL cần tích cực triển khai Quy hoạch vùng ÐBSCL. Coi đây là nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới; chủ động, quyết liệt hơn nữa trong việc triển khai các nhiệm vụ, chương trình, dự án đã được xác định trong quy hoạch; khẩn trương xây dựng, hoàn thành quy hoạch của từng địa phương. Tinh thần là quy hoạch phải đi trước một bước, tư duy đột phá, tầm nhìn chiến lược, sát thực tế, khả thi, phát huy được tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh sẵn có của các lĩnh vực, khu vực, địa phương và tháo gỡ, hóa giải những hạn chế, yếu kém, mâu thuẫn, thách thức, khó khăn, đồng thời tạo ra động lực mới, thu hút nguồn lực mới cho phát triển. Muốn phát triển tốt thì phải có quy hoạch tốt, vì quy hoạch tốt thì mới có chương trình, dự án tốt, có chương trình, dự án tốt thì mới có nhà đầu tư tốt.

Về phát triển hạ tầng trong giai đoạn tới, cần tập trung tháo gỡ điểm nghẽn về hạ tầng giao thông và logistics, hạ tầng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, hạ tầng giáo dục, y tế, hạ tầng chuyển đổi số, ứng phó BÐKH. Các địa phương cần nâng cao tinh thần tự chủ, tự lực, tự cường; nâng cao chất lượng quản trị, năng lực điều hành; chịu trách nhiệm đối với công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư; thúc đẩy triển khai các dự án hạ tầng được giao trên địa bàn, bảo đảm tiến độ, chất lượng…

Các bộ, ngành, địa phương phải cụ thể hóa Luật Ðầu tư theo phương thức đối tác công tư, nhất là trong đầu tư cho lĩnh vực cơ sở hạ tầng chiến lược. Ðẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công; đôn đốc, kiểm tra, giám sát chặt việc thực hiện. Ða dạng hóa nguồn tài chính, đẩy mạnh hợp tác công tư; huy động, kích hoạt mọi nguồn lực cho đầu tư, phát triển, lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư nhân có trọng tâm, trọng điểm, phát triển các mô hình: lãnh đạo công - quản trị tư; đầu tư công - quản lý tư; đầu tư tư - sử dụng công. Các bộ ngành cần phải phối hợp chặt chẽ, thực hiện quyết liệt, thực chất, hiệu quả các nghị quyết, quy hoạch, kế hoạch hành động về phát triển ÐBSCL theo thẩm quyền, nếu gặp khó khăn, vướng mắc thì cùng thảo luận, bàn bạc, tập trung giải quyết.

Cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh cần tạo đột phá trong cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa thủ tục, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thông thoáng, minh bạch, bình đẳng, thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư. Tận dụng sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để xây dựng chính quyền số, phát triển kinh tế số, xã hội số… Quan tâm đến an sinh xã hội, không để ai bị bỏ lại phía sau, không hy sinh tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Không đánh đổi môi trường để đổi lấy tăng trưởng đơn thuần.

Chính phủ mong các đối tác phát triển, các nhà khoa học, các nhà đầu tư trong và ngoài nước tiếp tục chung tay, chung sức, đồng lòng, đồng hành cùng Chính phủ trong các hoạt động phát triển ÐBSCL. Với sự quyết tâm và vào cuộc quyết liệt của toàn bộ hệ thống chính trị, các cấp, các ngành và sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, trong thời gian tới, vùng ÐBSCL sẽ có sự phát triển mạnh mẽ và đột phá.

G.B (lược ghi)

 

Chung sức vì sự phát triển ÐBSCL

GIA BẢO (ghi)

Tại hội nghị công bố quy hoạch vùng ÐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050, các ý kiến trình bày tại hội nghị cùng hướng đến mục tiêu: Vì một đồng bằng thịnh vượng. Phóng viên Báo Cần Thơ lược ghi ý kiến một số lãnh đạo Bộ, địa phương và các tổ chức quốc tế.

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Ðầu tư Nguyễn Chí Dũng: 

Tăng nguồn lực đầu tư cho ÐBSCL

Trong giai đoạn 2021-2025, tổng số vốn ngân sách nhà nước hỗ trợ các dự án trên địa bàn do địa phương quản lý dự kiến đạt khoảng 320.000 tỉ đồng, tăng 23,3% so với giai đoạn 2016-2020. Trong đó, nguồn vốn cân đối ngân sách địa phương là khoảng 178.000 tỉ đồng; nguồn vốn ngân sách Trung ương là khoảng 82.000 tỉ đồng, tăng 41,2% so với giai đoạn 2016-2020; nguồn vốn nước ngoài (ODA) là 60.000 tỉ đồng (trong đó bao gồm 46.000 tỉ đồng khoản hỗ trợ DPO), chiếm 30% tổng ODA cả nước trong giai đoạn 2021-2025, trong khi con số tương ứng giai đoạn 2016-2020 là 7,66%.

Ngoài ra, vốn ngân sách nhà nước đầu tư qua một số bộ để triển khai các công trình dự án trong vùng khoảng 140.000 tỉ đồng. Tổng số vốn ngân sách nhà nước đầu tư dự kiến giai đoạn 2021-2025 của vùng khoảng 460.000 tỉ đồng. Số vốn này sẽ bố trí hoàn thành một số công trình trọng điểm của vùng, như: cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận - Cần Thơ, Cần Thơ - Cà Mau, Châu Ðốc - Cần Thơ - Sóc Trăng; các tuyến quốc lộ; toàn bộ tuyến đường ven biển; một số trục động lực kết nối với TP Hồ Chí Minh, vùng Ðông Nam Bộ; cảng hàng không; các công trình thủy lợi cấp nước, trữ nước, kiểm soát mặn...

Ðồng thời, thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Ðầu tư đã chủ trì, phối hợp Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT), Bộ Giao thông vận tải (GTVT) và 13 tỉnh, thành phố trong vùng làm việc với nhóm 6 ngân hàng phát triển quan tâm (bao gồm: ADB, KEXIM, AFD, KfW, JICA, WB) thống nhất tài trợ khoảng 2,2 tỉ USD để triển khai 20 dự án liên kết vùng trong giai đoạn 2021-2025. Tuy nhiên, việc triển khai quy hoạch vùng ÐBSCL chỉ đạt kết quả cao nhất khi huy động thành công các dự án đầu tư từ mọi thành phần kinh tế và khơi dậy, nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh mạnh mẽ của doanh nghiệp, người dân.

Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thể: 

Gỡ điểm nghẽn về hạ tầng giao thông ÐBSCL

Chúng tôi nhận thấy giao thông vận tải của ÐBSCL đang là điểm nghẽn rất lớn. Mặc dù Ðảng và Nhà nước đã rất tập trung đầu tư nhưng hệ thống giao thông hiện vẫn chưa đạt yêu cầu. Giai đoạn 2021-2025, Bộ GTVT xác định các điểm đột phá về phát triển hạ tầng giao thông vận tải cho khu vực ÐBSCL. Thứ nhất là đảm bảo cho tàu 10.000 tấn đến TP Cần Thơ và một số cảng hiện nay, đồng thời bổ sung cảng nước sâu Trần Ðề, xem như là cửa ngõ chính của ÐBSCL, để tàu 80.000-100.000 tấn có thể hoạt động khu vực này. Thứ hai, về hàng không, ngoài sân bay Cần Thơ, chúng tôi đang nghiên cứu để nâng cấp 3 sân bay: một là sân bay Phú Quốc, cần thiết nghiên cứu thêm đường băng; sân bay Cà Mau và Rạch Giá cũng đang trong kế hoạch nâng cấp để đảm bảo tàu bay A320 có thể đỗ được.

Ðến thời điểm này, Bộ GTVT xác định có 86.000 tỉ đồng vốn ngân sách Nhà nước đã được Quốc hội thống nhất để tập trung phát triển đột phá hệ thống đường cao tốc ở khu vực này. Cả vùng đồng bằng mới có 90km đường cao tốc và đang triển khai 30km nữa. Trong nhiệm kỳ này, Bộ GTVT bố trí đầu tư 400km đường cao tốc, gồm những trục chính kết nối TP Hồ Chí Minh với Cần Thơ, từ Cần Thơ kết nối mũi Cà Mau; tuyến cao tốc An Hữu (Cao Lãnh) qua Rạch Giá. Nếu chúng ta đạt kế hoạch thì cuối nhiệm kỳ này có thể đạt 400km đường cao tốc, cộng với khoảng 130km hiện đang triển khai thì ÐBSCL sẽ có 500km đường cao tốc.

Với hệ thống đường cao tốc cùng cảng Trần Ðề, sân bay quốc tế Cần Thơ, tin chắc rằng hết nhiệm kỳ này, ÐBSCL sẽ phát huy thế mạnh để phát triển đột phá.

Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Minh Hoan: 

Khởi tạo không gian phát triển mới cho ÐBSCL

Bộ NN&PTNT sẽ hỗ trợ điều phối các dự án tài trợ quốc tế có tính liên tỉnh, liên vùng, kết hợp hài hòa giữa đầu tư công trình và các giải pháp phi công trình, mở ra không gian kinh tế nông thôn. Bộ cũng đang tích cực đàm phán, kêu gọi các dự án đầu tư hạ tầng logistics nông nghiệp, nông thôn, trong đó có chuỗi kho lạnh bảo quản nông sản cấp độ liên huyện, liên tỉnh dọc theo sông Hậu và sông Tiền.

Về đầu tư thủy lợi cho vùng, áp dụng nguyên tắc “đầu tư không hối tiếc” trong triển khai thực hiện các công trình kiểm soát mặn kèm theo hỗ trợ, bổ sung ngọt để sử dụng nước mặn thực sự là nguồn tài nguyên tại vùng chuyển đổi và vùng linh hoạt, đảm bảo tiếp tục phục vụ chuyển dịch sản xuất phù hợp theo từng vùng sinh thái. Ðồng thời, tiếp tục đầu tư các công trình phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thích ứng với BÐKH. Nhu cầu đầu tư thủy lợi cho vùng khoảng 41.257 tỉ đồng, trong đó rà soát những nội dung ưu tiên thì nhu cầu khoảng 30.000 tỉ đồng trong giai đoạn 2021-2025.

Ðể phát triển thì liên kết vùng ÐBSCL cần được thực thi hiệu quả, đó không phải là phép tính cộng về dân số, về diện tích, về nguồn lực hữu hình của 13 tỉnh, thành phố. Hơn hết, đó là độ mở, kết nối về tư duy, kết nối các nguồn lực vô hình, vô hạn, tạo dựng mối quan hệ hài hòa giữa “Nhà nước - Thị trường - Xã hội”, kiếm tìm xung lực mới, khởi tạo không gian phát triển mới.

Ông Trần Việt Trường, Chủ tịch UBND TP Cần Thơ: 

Cần Thơ là trung tâm trong liên kết phát triển vùng

Ðể phát huy “Vai trò, vị trí của Cần Thơ là trung tâm của vùng ÐBSCL trong liên kết phát triển vùng”, TP Cần Thơ xác định “3 trụ cột” quan trọng, đó là: bám sát sự chỉ đạo của Trung ương; phát huy nội lực của Cần Thơ; tăng cường liên kết để phát triển.

Thành phố sẽ phối hợp chặt chẽ với bộ, ngành Trung ương thực hiện đầu tư hệ thống giao thông đồng bộ, đường thủy, đường hàng không, đường sắt nhằm tạo sự kết nối thuận lợi giữa thành phố và các tỉnh trong vùng, kết nối với TP Hồ Chí Minh. Ðặc biệt là tuyến cao tốc theo trục dọc (Trung Lương - Cần Thơ - Cà Mau); trục ngang (Châu Ðốc - Cần Thơ - Sóc Trăng). Ðầu tư thành phố “sân bay”, xây dựng Trung tâm liên kết, sản xuất, chế biến, bảo quản và phân phối sản phẩm nông nghiệp của vùng ÐBSCL; ưu tiên xây dựng hệ thống logistics hàng không, cảng sông, trung tâm logistics cấp vùng tại Cần Thơ; đầu tư các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố; phát triển trung tâm khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo vùng tại Cần Thơ…

Phát huy nội lực của Cần Thơ dựa trên vị trí trung tâm ÐBSCL, với giao điểm của hai trục kinh tế - đô thị năng động nhất của vùng ÐBSCL (trục hành lang TP Hồ Chí Minh - TP Cần Thơ và trục sông Hậu)... Thành phố sẽ phát huy tốt vai trò trung tâm y tế, giáo dục, thương mại của vùng ÐBSCL. TP Cần Thơ định hướng quy hoạch đô thị theo hướng đô thị sông nước sinh thái sẽ tăng đầu tư xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng đô thị để Cần Thơ thật sự là đô thị hạt nhân của vùng ÐBSCL, có khả năng chống chịu với BÐKH; thí điểm xây dựng đô thị thông minh và mô hình quản trị đô thị mới.

Cùng với đó, tăng cường liên kết các địa phương vùng ÐBSCL, TP Hồ Chí Minh, các tỉnh trong cả nước; đẩy mạnh hợp tác quốc tế nhằm phát huy tốt vai trò trung tâm của TP Cần Thơ.

Bà Elsbeth Akker, Ðại sứ đặc mệnh toàn quyền Vương quốc Hà Lan tại Việt Nam: 

Hà Lan cam kết đồng hành cùng sự phát triển của ÐBSCL

Hà Lan cam kết tiếp tục hợp tác với Chính phủ, khu vực tư nhân, các nhà khoa học và các tổ chức phi Chính phủ của Việt Nam thực hiện thành công Quy hoạch tổng thể tích hợp nhằm giúp con người, kinh tế và thiên nhiên ở ÐBSCL phát triển mạnh mẽ. Hà Lan sẽ kết hợp chặt chẽ với Bộ NN&PTNT để chuyển đổi nông nghiệp giá trị cao, bảo vệ hệ sinh thái đa dạng của vùng, bảo vệ vành đai ngập mặn và hệ sinh thái ngập mặn đang bị đe dọa nghiêm trọng. Hà Lan sẽ làm việc với các đối tác phát triển (Ngân hàng Phát triển châu Á) để cam kết hỗ trợ Việt Nam - ÐBSCL củng cố các khu vực ven biển của ÐBSCL và tăng khả năng chống chịu của người dân nơi đây, tăng sức chống chịu của vùng trước tác động của BÐKH.

Cam kết của Hà Lan cũng có nghĩa là cùng nhau hợp tác phát triển các trung tâm vận tải, hậu cần và kinh doanh nông sản, giúp các sản phẩm đến được các thành phố một cách an toàn để được "bán và tiêu thụ" và tới các cảng biển để "xuất khẩu". Việc hình thành các trung tâm đầu mối kinh doanh nông sản ở ÐBSCL sẽ là một yếu tố quan trọng để gia tăng giá trị sản phẩm thông qua phát triển các trung tâm chế biến và công nghệ. Cùng với đó, Dự án Cảng biển nước sâu Cái Mép Hạ và trung tâm logistics trị giá 1 tỉ EURO do liên doanh Việt Nam - Hà Lan - Bỉ phát triển sẽ là một "viên gạch" quan trọng để xây dựng khả năng tiếp cận thị trường châu Âu cho tôm và trái cây từ ÐBSCL.

 

Chia sẻ bài viết