05/12/2025 - 11:02

Quảng bá Việt Nam qua điện ảnh Ấn Độ 

Gần đây, việc nhiều dự án điện ảnh lớn của Ấn Độ đồng loạt chọn bối cảnh tại: Quảng Trị, Ninh Bình, Đà Nẵng, Cao Bằng… đã mở ra cơ hội lớn trong quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam.

Diễn viên Ấn Độ trong một cảnh quay tại Việt Nam.

Với tầm ảnh hưởng đặc biệt của Bollywood trong đời sống văn hóa Ấn Độ và nhiều khu vực trên thế giới, tín hiệu nêu trên được kỳ vọng mở rộng sức lan tỏa của du lịch nếu có sự chủ động nâng cao năng lực đón nhận và khai thác hiệu quả từ việc hợp tác.

Việt Nam đang trở thành điểm đến hấp dẫn với các nhà sản xuất phim Ấn Độ. Sau thành công của dự án “Love in Vietnam” (tên tiếng Việt: “Vạn dặm yêu em”), bộ phim “Silaa” và một số dự án tiếp tục được triển khai với nhiều cảnh quay tại Quảng Trị, Ninh Bình, Cao Bằng, Quảng Ninh… Bên cạnh việc tạo sức hút nhờ những khung hình giàu thẩm mỹ, các dự án như “Love in Vietnam” còn khai thác đồng bộ bối cảnh với văn hóa bản địa nhằm giúp người xem cảm nhận Việt Nam trong một không gian sống trọn vẹn hơn.

So với nhiều dự án quốc tế trước đây, chỉ đến Việt Nam để lấy cảnh quan, còn nhân lực trong nước thì đứng ngoài quá trình sản xuất, các dự án của Ấn Độ đã có sự tham gia của các diễn viên Việt Nam, góp phần định hình nhịp điệu cảm xúc, mạch nội dung của phim; phía đoàn làm phim cũng đồng ý sản xuất clip quảng bá du lịch Việt Nam để chiếu trước tất cả các suất tại 1.000 rạp ở Ấn Độ.

Hiện Quảng Trị đang trở thành tâm điểm chú ý khi đoàn phim “Silaa” chọn Sơn Đoòng, hang Én và hệ thống hang Tú Làn, động Phong Nha làm bối cảnh chính. Khác với thời điểm phim “Kong: Skull Island” chọn bối cảnh tại Ninh Bình và có những hạng mục nhưng chưa kịp tận dụng hiệu ứng quảng bá, lần này Quảng Trị phối hợp chặt chẽ với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Ban Quản lý Vườn quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng và các đơn vị doanh nghiệp tư nhân để đón đoàn phim theo cách chuyên nghiệp hơn, phát huy cao nhất cơ hội.

Mới đây, tại Hội nghị quốc tế “Ninh Bình - điểm đến chiến lược cho du lịch, điện ảnh và lễ cưới cao cấp”, nhiều đạo diễn và nhà sản xuất Bollywood nhận định, nhiều địa phương ở nước ta hội tụ đủ yếu tố để trở thành phim trường lớn của khu vực. Thứ trưởng Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hồ An Phong cũng đánh giá cao tiềm năng và khẳng định việc các cường quốc điện ảnh lựa chọn một số địa phương làm bối cảnh sẽ góp phần gia tăng lượng khách quốc tế, đặc biệt từ thị trường Ấn Độ.

Diễn viên hai nước trong một cảnh quay.

Nhiều tỉnh, thành phố đang tích cực chuẩn bị hạ tầng phim trường, không gian du lịch, các dịch vụ hỗ trợ để đón làn sóng sản xuất phim. Đây cũng là chiến lược dài hạn nhằm gắn điện ảnh với phát triển du lịch bền vững. Thứ trưởng Hồ An Phong nhấn mạnh: “Khi các cảnh quay của Việt Nam xuất hiện qua góc nhìn tinh tế của điện ảnh Bollywood, đó là cách quảng bá nhanh, hiệu quả và bền vững nhất”.

Theo các chuyên gia điện ảnh Ấn Độ, mỗi năm, Bollywood sản xuất khoảng 1.500 bộ phim và có lượng khán giả hùng hậu tại thị trường Nam Á, Trung Đông, châu Phi và một phần châu Âu. Vì thế, mỗi bộ phim quay tại Việt Nam có thể nhận định như chiến dịch truyền thông quy mô lớn mà nếu mua bằng ngân sách quảng cáo truyền thống sẽ hết sức tốn kém.

Với cảnh quan thiên nhiên đặc sắc trải dài từ hang động, rừng núi, sông nước đến các di sản văn hóa, lịch sử, Việt Nam sở hữu lợi thế hiếm có để trở thành phim trường tự nhiên của khu vực. Chi phí sản xuất cạnh tranh, đội ngũ địa phương ngày càng chuyên nghiệp và sự đồng hành tích cực của chính quyền các địa phương cũng giúp ghi điểm trong mắt các nhà sản xuất quốc tế.

Đi cùng cơ hội, vẫn còn những thách thức không nhỏ đòi hỏi Việt Nam phải chuẩn bị bài bản, dài hạn. Cụ thể, cơ chế ưu đãi dành cho đoàn phim quốc tế chưa thật sự cạnh tranh so với nhiều nước trong khu vực; thủ tục cấp phép ở một số địa điểm còn mất thời gian; hạ tầng trường quay, dịch vụ sản xuất phim và hậu kỳ vẫn thiếu đồng bộ. Một số bối cảnh nằm trong khu bảo tồn hoặc di sản có sức tải hạn chế, đòi hỏi quy trình giám sát nghiêm ngặt để tránh tác động xấu đến môi trường.

Để khai thác cao nhất cơ hội từ các dự án điện ảnh nước ngoài, đồng thời khắc phục những hạn chế hiện nay, cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp. Trước hết, ngành văn hóa và du lịch cần phối hợp xây dựng chính sách ưu đãi cạnh tranh, trong đó nghiên cứu cơ chế hoàn thuế hoặc hỗ trợ chi phí cho đoàn phim tương tự Thái Lan, Hàn Quốc nhằm tạo sức hút thực chất.

Cục trưởng Cục Du lịch quốc gia Việt Nam Nguyễn Trùng Khánh

Sau mỗi dự án phim, việc khai thác hiệu ứng “theo dấu phim” để phát triển du lịch còn chưa tương xứng với tiềm năng, dẫn đến hiệu quả truyền thông bị ngắt quãng. Những thách thức này cần được nhìn nhận như động lực để ngành du lịch, điện ảnh phối hợp chặt chẽ hơn, từ hoàn thiện chính sách đến phát triển sản phẩm, nhằm biến Việt Nam thành điểm đến hấp dẫn, bền vững cho các đoàn phim quốc tế và tạo đà cho bước phát triển mới của du lịch trong thời gian tới.

Cục trưởng Cục Du lịch quốc gia Việt Nam Nguyễn Trùng Khánh nhận định: “Để khai thác cao nhất cơ hội từ các dự án điện ảnh nước ngoài, đồng thời khắc phục những hạn chế hiện nay, cần triển khai đồng bộ nhiều giải pháp. Trước hết, ngành văn hóa và du lịch cần phối hợp xây dựng chính sách ưu đãi cạnh tranh, trong đó nghiên cứu cơ chế hoàn thuế hoặc hỗ trợ chi phí cho đoàn phim tương tự Thái Lan, Hàn Quốc nhằm tạo sức hút thực chất.

Cùng với đó, các thủ tục cấp phép ghi hình, sử dụng phương tiện kỹ thuật, tiếp cận di sản, khu bảo tồn cần được đơn giản hóa, minh bạch và thống nhất giữa các địa phương, giúp rút ngắn thời gian chuẩn bị và tạo tâm lý yên tâm cho nhà sản xuất quốc tế. Việt Nam cần phát triển hạ tầng phục vụ công nghiệp điện ảnh, bao gồm trường quay hiện đại, trung tâm hậu kỳ, kho thiết bị đạt chuẩn quốc tế và đội ngũ kỹ thuật, sản xuất được an toàn chuyên nghiệp…”.

Các chuyên gia nhấn mạnh, đối với lĩnh vực du lịch, các địa phương có bối cảnh được lựa chọn cần chủ động thiết kế sản phẩm du lịch “theo dấu phim”, phát triển các tour chuyên đề, điểm check-in, triển lãm hậu trường và chương trình biểu diễn gắn với bộ phim để kéo dài hiệu ứng truyền thông. Các chiến dịch quảng bá cũng cần được thực hiện đồng bộ, tận dụng chính diễn viên, đạo diễn và ê-kíp phim như những đại sứ hình ảnh, đồng thời đẩy mạnh truyền thông số tại các thị trường trọng điểm như Ấn Độ, Mỹ, Hàn Quốc.

Một giải pháp quan trọng khác cần tập trung vào bảo vệ môi trường và di sản, nhất là tại các khu vực nhạy cảm như hang động, rừng núi hay di sản thế giới. Các bộ tiêu chí về quản lý đoàn phim, giám sát hiện trường, xử lý rác thải, an toàn quay phim cần được áp dụng chặt chẽ để bảo đảm bền vững và giữ gìn nguyên trạng cảnh quan.

Cần hình thành cơ chế phối hợp liên ngành giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các địa phương, doanh nghiệp du lịch, điện ảnh và đối tác quốc tế nhằm xây dựng tầm nhìn dài hạn. Khi điện ảnh và du lịch gắn kết một cách chiến lược, Việt Nam vừa trở thành điểm đến hấp dẫn của các nhà làm phim quốc tế vừa tạo động lực mạnh mẽ để quảng bá hình ảnh đất nước, đóng góp thiết thực vào tăng trưởng kinh tế và lan tỏa giá trị văn hóa.

Mai Lữ (Báo Nhân dân)

Chia sẻ bài viết