14/06/2009 - 07:36

Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng giải trình một số vấn đề mà Quốc hội và cử tri quan tâm

 

Sáng 13-6, thay mặt Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Sinh Hùng đã trình bày báo cáo giải trình một số vấn đề mà Quốc hội và cử tri cả nước đang quan tâm, trong đó trình bày rõ thêm 5 vấn đề: về đánh giá tình hình, về chính sách kích thích kinh tế, các gói kích cầu, về nông nghiệp, nông dân, nông thôn và giảm nghèo, về các dự án bô-xít và về việc chuẩn bị các giải pháp cho thời kỳ phát triển sau suy giảm.

Theo Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng, thời gian qua, Chính phủ đã đánh giá đúng tình hình, có các quyết sách kịp thời, phù hợp và chỉ đạo thực hiện quyết liệt nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế .

Ở trong nước, tình hình kinh tế - xã hội 5 tháng đầu năm đã có bước cải thiện, tuy còn chậm chạp, nhưng có dấu hiệu cho thấy đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất. Suy giảm kinh tế của nước ta hiện nay bắt nguồn từ những yếu kém vốn có của nền kinh tế và tác động tiêu cực từ khủng hoảng kinh tế thế giới; đồng thời, chịu hệ lụy của lạm phát và thắt chặt tài chính, tiền tệ để chống lạm phát năm 2008. Nền kinh tế của chúng ta tuy chưa rơi vào khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế nhưng mức suy giảm là khá nặng và vẫn còn nguy cơ tái lạm phát, phải chấp nhận tăng bội chi ngân sách để thực hiện các biện pháp kích thích kinh tế và tạo tiền đề cho giai đoạn tiếp sau. Tình hình đó đòi hỏi phải điều chỉnh một số chỉ tiêu kế hoạch năm 2009, điều hành nền kinh tế một cách tích cực trên cơ sở những mục tiêu tổng quát đã đề ra.

Về tốc độ tăng trưởng kinh tế: Quan điểm của Chính phủ là giữ ở mức khoảng 5% là hợp lý. Cũng có đại biểu còn phân vân, nhưng để đạt được mức tăng này cũng đòi hỏi phải có sự phấn đấu cao, hơn nữa nếu giảm thấp sẽ ảnh hưởng lớn đến quá trình phục hồi kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội của nước ta.

Về bội chi ngân sách nhà nước, Chính phủ báo cáo: Tổng mức chi ngân sách nhà nước được Quốc hội quyết định đầu năm là rất cần thiết và đã được tính toán chặt chẽ nên cần cố gắng bảo đảm, không cắt giảm. Để bù đắp thiếu hụt ngân sách do sụt giảm sản xuất, giảm giá dầu thô, do chính sách giảm thuế và để tăng chi đầu tư công, bảo đảm an sinh xã hội thì cần thiết phải tăng bội chi ngân sách. Trên cơ sở phấn đấu tăng thu, Chính phủ đã đề nghị 3 phương án bội chi tương ứng với 3 mức giảm giá dầu thô như đã trình bày trong báo cáo với Quốc hội.

Tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, xem xét diễn biến giá dầu thô trong những ngày gần đây có xu hướng tăng lên và yêu cầu thực hiện các biện pháp tăng cường quản lý thu, xử lý nợ đọng thuế và đề phòng lạm phát cao trở lại thì mức bội chi khoảng 7% GDP có thể phấn đấu được; căn cứ tình hình thực tế, Chính phủ sẽ điều hành mức bội chi thấp nhất và giảm dần trong các năm tiếp theo.

Về việc đẩy mạnh thực hiện các gói kích thích kinh tế, khắc phục khó khăn trước mắt, nhanh chóng thoát ra khỏi tình trạng suy giảm kinh tế, Phó Thủ tướng cho biết: Trong những tháng vừa qua, chúng ta đã triển khai các nhóm giải pháp (gói) kích thích kinh tế sau đây: Miễn, giảm, giãn thuế nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp và kích thích tiêu dùng cá nhân; Hỗ trợ lãi suất và bảo lãnh của Chính phủ nhằm giúp doanh nghiệp tiếp cận các nguồn tín dụng phục vụ đầu tư, sản xuất, kinh doanh và giải quyết khó khăn phát sinh do suy giảm kinh tế; Tăng đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn vốn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ; Bổ sung các khoản chi ngân sách nhà nước về đảm bảo an sinh xã hội, giảm nghèo.

Các giải pháp trên đây tạo ra “cú hích” cho nền kinh tế đang trong tình trạng trì trệ và suy giảm, kích thích đầu tư và tiêu dùng dân cư; hỗ trợ các doanh nghiệp khắc phục khó khăn tạm thời, tiếp tục duy trì sản xuất, tạo việc làm cho người lao động, giữ an toàn hệ thống tín dụng và bảo đảm an sinh xã hội. Về lâu dài, các gói kích thích kinh tế tạo điều kiện cho việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, chuẩn bị cho việc tái cấu trúc nền kinh tế thời kỳ sau suy giảm thông qua việc tập trung cho đầu tư cơ sở hạ tầng, đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các công trình giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục và đào tạo; tăng cường đào tạo nghề cho người lao động, đặc biệt là lao động nông thôn; hỗ trợ doanh nghiệp tranh thủ nhập khẩu máy móc công nghệ cao đang trong thời kỳ hạ giá để đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh.

Tổng trị giá các gói kích thích kinh tế khoảng 145 nghìn tỉ đồng (tương đương 9% GDP), trong đó, “gói” chính sách giảm thuế 28 nghìn tỉ đồng, “gói” hỗ trợ lãi suất vay tín dụng 17 nghìn tỉ đồng, “gói” tăng đầu tư công hơn 90 nghìn tỉ đồng và “gói” bổ sung an sinh xã hội gần 10 nghìn tỉ đồng. Các gói giải pháp này được thực hiện từ các nguồn đã bố trí trong ngân sách nhà nước, nguồn ứng trước, nguồn dự trữ ngoại hối và nguồn phát hành vay dân. Tất cả các nguồn tiền đó đã có trong lưu thông, không phải phát hành thêm. Tổng số tiền của các giải pháp tuy không nhiều nhưng đối với quy mô nền kinh tế nước ta hiện nay, đã là một cố gắng lớn. Các chính sách đó đều có giới hạn về thời gian và có chọn lọc về các đối tượng. Hết thời hạn đó, tùy tình hình cụ thể, sẽ có những giải pháp tiếp theo.

Tuy nhiên, qua thảo luận cũng còn có ý kiến băn khoăn về hiệu quả của các chính sách này, đặc biệt là chính sách bù lãi suất. Như đã trình bày ở trên, nước ta kích cầu để chống suy giảm kinh tế trong điều kiện năng lực nền kinh tế hạn hẹp, nhập siêu, lãi suất tín dụng, tỷ lệ bội chi ngân sách và lạm phát còn ở mức cao. Vì vậy, sau nhiều lần thảo luận tập thể, tham khảo ý kiến của các chuyên gia, Chính phủ đã chọn giải pháp hỗ trợ 4% lãi suất vay vốn ngân hàng nhằm mục tiêu trước hết là giải quyết khó khăn về vốn lưu động để bảo đảm duy trì sản xuất, kinh doanh và việc làm; mặt khác cũng hỗ trợ vay vốn đầu tư để đổi mới tài sản cố định, góp phần tái cơ cấu lại nền kinh tế. Do khoản hỗ trợ này không nhiều, nên được dành ưu tiên cho các hộ sản xuất, kinh doanh, các hộ nghèo, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không phân biệt thành phần kinh tế. Đây là những đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương, hoạt động chủ yếu bằng vốn vay và sử dụng nhiều lao động. Song song với khoản hỗ trợ lãi suất, Chính phủ giao Ngân hàng Phát triển Việt Nam mở rộng hình thức bảo lãnh vay vốn ngân hàng thương mại cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh có vốn dưới 20 tỉ đồng hoặc sử dụng dưới 1.000 lao động.

Liên quan đến các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn và giảm nghèo, Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng cho biết: Ngay sau khi Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn được ban hành, Chính phủ và các địa phương đã đề ra Chương trình hành động nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc, trước mắt vừa chuẩn bị phát triển căn cơ, lâu dài về nông nghiệp, nông thôn và cải thiện đời sống nông dân. Chính phủ đã có kế hoạch đối phó với sự biến đổi khí hậu, nước biển dâng; xây dựng nông thôn mới; hỗ trợ giảm nghèo đối với các huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao; hỗ trợ người nghèo về nhà ở; hỗ trợ nông dân về kỹ thuật sản xuất, giảm tổn thất sau thu hoạch; bảo đảm an ninh lương thực và đào tạo nguồn nhân lực cho nông thôn...

Về đẩy mạnh thực hiện các chương trình giảm nghèo: Các chương trình, dự án, chính sách hỗ trợ giảm nghèo tuy nhiều nhưng chưa được lồng ghép tốt nên hiệu quả còn hạn chế. Vì vậy, Chính phủ đã và đang chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây:

Thứ nhất, tiếp tục thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các chính sách giảm nghèo hiện hành, trong đó có chính sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở, vay vốn sản xuất, kinh doanh và học tập, hỗ trợ mua thẻ Bảo hiểm y tế; đồng thời, tiếp tục thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo và các Chương trình 134, 135, để năm 2010 hoàn thành các mục tiêu và xây dựng cơ sở hạ tầng ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Thứ hai, ban hành chuẩn nghèo mới; đồng thời, tổ chức điều tra lập danh sách hộ nghèo, hộ cận nghèo của từng xã, huyện, tỉnh trong quý IV năm 2009 và bố trí nguồn lực thực hiện từ năm 2010.

Thứ ba, sớm phê duyệt các chương trình hỗ trợ giảm nghèo cho từng huyện theo tinh thần Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới; tổ chức, động viên các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân hỗ trợ các huyện nghèo thực hiện chương trình này; ứng trước vốn cho các huyện để chủ động triển khai các chính sách mới, trong đó có chính sách cấp gạo cho hộ nghèo ở biên giới, thực hiện mức khoán mới về bảo vệ rừng, hỗ trợ học nghề, xuất khẩu lao động và tăng cường cán bộ cho các huyện nghèo.

Để giải quyết tốt và đồng bộ vấn đề việc làm, hạn chế mất việc và hỗ trợ người lao động mất việc làm, Chính phủ đề ra các giải pháp sau đây:

Một là, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu; thực hiện tốt các giải pháp kích cầu đầu tư và tiêu dùng, giải quyết các khó khăn cho doanh nghiệp, cho các làng nghề, nhất là những ngành sử dụng nhiều lao động và những ngành có nhiều lao động bị mất việc như dệt may, chế biến thủy, hải sản xuất khẩu...

Hai là, triển khai các chính sách hỗ trợ người lao động mất việc làm, tạo việc làm và xuất khẩu lao động; thường xuyên nắm số lao động thôi việc, mất việc do suy giảm kinh tế để có chính sách hỗ trợ phù hợp. Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề và tái đào tạo nghề, cung cấp tư vấn và giới thiệu việc làm cho người lao động, hỗ trợ người lao động đến các thành phố, khu công nghiệp tập trung.

Ba là, tăng cường công tác quản lý lao động, công tác tuyên truyền, phổ biến và giám sát việc thực thi các chính sách và pháp luật về lao động - việc làm, về thị trường lao động, về các chính sách hỗ trợ người lao động bị mất việc làm do suy giảm kinh tế. Nâng cao trách nhiệm của chính quyền địa phương trong việc phối hợp với tổ chức công đoàn bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động và giải quyết kịp thời các vấn đề xã hội phát sinh trên địa bàn.

Bốn là, hoàn thiện chính sách, tăng cường quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam theo pháp luật và hợp tác với các nước để giải quyết vấn đề lao động nước ngoài cũng như các nước đối tác đã hợp tác với ta để giải quyết lao động Việt Nam; đồng thời, tích cực đào tạo chuyên môn để lao động Việt Nam đủ trình độ thay thế người nước ngoài đảm đương các công việc đòi hỏi trình độ cao.

Về triển khai thực hiện có hiệu quả chính sách cho nông dân vay ưu đãi để mua sắm máy móc, thiết bị, vật tư, Chính phủ đã ban hành chính sách hỗ trợ lãi suất vay vốn mua máy móc, thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp và vật liệu xây dựng nhà ở khu vực nông thôn. Chính sách này nhắm tới 2 mục tiêu: Khuyến khích và hỗ trợ nông dân đầu tư cơ giới hóa nông nghiệp, áp dụng tiến bộ kỹ thuật để tăng năng suất lao động, giảm chi phí, hạ giá thành, bảo đảm sản xuất đúng thời vụ; hỗ trợ xây dựng nhà ở nhằm cải thiện điều kiện sống cho người nông dân; Thực hiện việc kích cầu đối với hàng hóa sản xuất trong nước. Ngân hàng Nhà nước cùng chính quyền các địa phương chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện để đạt cho được 2 mục tiêu này.

Về việc tổ chức tiêu thụ hàng hóa cho nông dân, bên cạnh các giải pháp kích cầu nhằm giải quyết khó khăn trong sản xuất, tạo việc làm, Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách mở rộng thị trường, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. Trong đó có các chính sách về khuyến khích ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm giữa nông dân và các doanh nghiệp, phương thức hợp tác “bốn nhà”; xây dựng hệ thống chợ đầu mối và chợ nông thôn; hỗ trợ hoạt động xúc tiến thương mại và lãi suất vay mua tạm trữ hàng hóa. Tiếp tục nghiên cứu phát triển các loại hình bảo hiểm nông nghiệp, trước hết là bảo hiểm nông sản xuất khẩu; áp dụng cơ chế giá sàn định hướng đối với sản phẩm nông nghiệp, trước mắt là lúa, gạo.

Đối với việc điều hành xuất khẩu gạo và hoạt động của Hiệp hội lương thực, Chính phủ luôn luôn quan tâm để cùng một lúc đạt cho được các mục tiêu: bảo đảm an ninh lương thực với giá lương thực nội tiêu hợp lý, giá gạo xuất khẩu có lợi cho người nông dân, bảo đảm lợi nhuận hợp lý cho người xuất khẩu gạo, hạn chế các thiệt hại do tranh mua, tranh bán và do yếu kém của doanh nghiệp Việt Nam trong đàm phán với các đối tác nước ngoài. Vì vậy, xuất khẩu lương thực được coi là hoạt động kinh doanh có điều kiện. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương và Ủy ban nhân dân các tỉnh chỉ đạo các doanh nghiệp và Hiệp hội doanh nghiệp phấn đấu thực hiện cho được các mục tiêu này. Trong điều kiện hội nhập quốc tế và không còn áp dụng chỉ tiêu pháp lệnh, hạn ngạch xuất khẩu thì việc tham gia của Hiệp hội là biện pháp tốt để đạt được các mục tiêu xuất khẩu và cùng với các Bộ liên quan bảo đảm sự thống nhất kế hoạch xuất khẩu trong cả nước. Chính phủ sẽ chỉ đạo các Bộ liên quan và Hiệp hội lương thực nghiêm túc rút kinh nghiệm và bàn các biện pháp căn cơ hơn, hiệu quả hơn trong công tác điều hành xuất khẩu nói chung, trong đó có xuất khẩu gạo, bảo đảm minh bạch và rõ trách nhiệm của các bên tham gia.

Về các dự án khai thác bô-xít ở Tây Nguyên, Phó Thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng báo cáo: Ngày 22 tháng 5 năm 2009, Chính phủ đã có Báo cáo số 91/BC-CP giải trình về việc triển khai các dự án bô-xít. Phó Thủ tướng nêu rõ, nước ta có tiềm năng bô-xít lớn, đứng trong số các nước có trữ lượng hàng đầu thế giới, khoảng 5,5 tỉ tấn và tập trung chủ yếu ở các tỉnh Tây Nguyên; nếu với quy mô khai thác theo Quy hoạch thì có thể khai thác trong khoảng một trăm năm (nếu chỉ để đáp ứng các nhu cầu trong nước, không xuất khẩu thì có thể khai thác trong vòng vài trăm năm). Chủ trương thăm dò, khai thác, chế biến bô-xít là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước ta từ hơn chục năm nay nhằm xây dựng ngành công nghiệp bô-xít, alumin, nhôm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội đất nước nói chung và góp phần phát triển kinh tế - xã hội Tây Nguyên nói riêng cả trước mắt và lâu dài.

Thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Chính phủ đã xây dựng Quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng bô-xít giai đoạn 2007 - 2015, có xét đến năm 2025. Đây là văn bản xác định quan điểm, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và những giải pháp chính làm cơ sở cho kế hoạch dài hạn triển khai thực hiện trong thời gian gần 20 năm. Trong Quy hoạch, Chính phủ đã quan tâm đề cập đến tất cả các yêu cầu về hiệu quả kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái cũng như môi trường văn hóa, xã hội và hợp tác đầu tư với nước ngoài của các dự án, đặc biệt quan tâm bảo đảm quốc phòng, an ninh trên địa bàn Tây Nguyên. Trong quá trình triển khai hai dự án Tân Rai và Nhân Cơ và khi có ý kiến của một số đồng chí lão thành Cách mạng và nhà khoa học, Chính phủ đã tổ chức các cuộc hội nghị, hội thảo, lắng nghe ý kiến đóng góp tâm huyết của tất cả mọi người, đã tổng hợp các ý kiến đó một cách nghiêm túc, trung thực báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị. Những việc làm đó là đúng pháp luật, đúng nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, minh bạch, trong sáng, cầu thị và có trách nhiệm.

Các dự án Tân Rai và Nhân Cơ do nước ta tự đầu tư, không liên doanh với nước ngoài. Việc thiết kế và xây dựng được thực hiện thông qua đấu thầu quốc tế công khai, đơn vị trúng thầu là một công ty Trung Quốc có uy tín trong lĩnh vực này. Đến ngày 01 tháng 6 năm 2009, trên cả 2 dự án có 667 người lao động nước ngoài (gồm 4 công dân Úc và 663 công dân Trung Quốc) làm việc được quản lý theo pháp luật của Việt Nam. Số lao động này sau khi xây dựng xong, bàn giao nhà máy, chuyển giao công nghệ và quản lý vận hành cho phía Việt Nam, sẽ trở về nước. Đồng thời với việc triển khai 2 dự án Tân Rai và Nhân Cơ, Chính phủ sẽ từng bước rút kinh nghiệm, tổng kết, bổ sung, hoàn chỉnh quy hoạch và kế hoạch cho giai đoạn tiếp theo.

Về các biện pháp, chính sách của Chính phủ chủ động chuẩn bị các điều kiện cho giai đoạn phát triển nhanh và bền vững sắp tới, Phó Thủ tướng cho rằng, trong khi tập trung chỉ đạo điều hành thực hiện tốt các nhóm giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế, cần phải chủ động chuẩn bị cho giai đoạn phát triển nhanh và bền vững trong những năm tiếp theo. Thực chất một số giải pháp kích thích kinh tế mà chúng ta đã và đang áp dụng chính là đã thể hiện tư tưởng này. Chính phủ đang chỉ đạo xây dựng Đề án Tái cấu trúc nền kinh tế. Đề án sẽ tập trung đánh giá tác động của khủng hoảng và dự báo những biến đổi của kinh tế toàn cầu, mối quan hệ giữa nhà nước với thị trường để qua đó xác định mô hình phát triển và các nội dung tái cấu trúc nền kinh tế nước ta.

XUÂN KHU (TTXVN)

Chia sẻ bài viết