11/10/2025 - 07:01

Phát huy sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam trong kỷ nguyên số 

Trong kỷ nguyên toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0, “sức mạnh mềm” đã trở thành một yếu tố then chốt khẳng định vị thế quốc gia. Với Việt Nam, sức mạnh mềm chính là sức mạnh văn hóa, sức mạnh tinh thần được hun đúc từ lịch sử dựng nước và giữ nước. Việc phát huy sức mạnh văn hóa trong bối cảnh hội nhập quốc tế không chỉ góp phần bảo tồn bản sắc dân tộc mà còn nâng cao uy tín, hình ảnh đất nước, tạo động lực phát triển bền vững, hiện thực hóa mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nhấn mạnh tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021: “Văn hóa còn thì dân tộc còn. Văn hóa mất thì dân tộc mất”.

Câu nói ấy cho thấy, văn hóa không chỉ là “hồn cốt” mà còn là “sức mạnh mềm” quyết định sự trường tồn và phát triển của quốc gia. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, khi các quốc gia cạnh tranh không chỉ bằng tiềm lực kinh tế - quân sự mà còn bằng sức hấp dẫn văn hóa, việc phát huy sức mạnh văn hóa Việt Nam trở thành yêu cầu cấp thiết, mang ý nghĩa chiến lược lâu dài.

Tại Hội nghị tổ chức Lễ kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống ngành Văn hóa (28/8/1945 – 28/8/2025) Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: “Mỗi người làm văn hóa hãy mang trong tim lòng yêu nước và tự trọng nghề nghiệp”. Văn hóa là một mặt trận, người làm văn hóa là chiến sĩ; nhấn mạnh xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; đặt con người là trung tâm, chủ thể, là động lực phát triển; phát huy giá trị gia đình, con người Việt Nam; văn hóa phải thẩm thấu vào đời sống chính trị, kinh tế, xã hội; đầu tư tương xứng, hỗ trợ sáng tạo, tôn vinh nghệ sĩ, trí thức.

Sức mạnh mềm trong lịch sử dân tộc Việt Nam

Khái niệm “sức mạnh mềm” được Joseph Nye (Mỹ) đưa ra từ thập niên 1990. Ông cho rằng đây là khả năng hấp dẫn, lôi cuốn, thuyết phục thay vì cưỡng bức. Nếu “sức mạnh cứng” là vũ khí, kinh tế, quân sự thì “sức mạnh mềm” chính là văn hóa, giá trị tinh thần, lý tưởng.

Thực tế, khái niệm này không xa lạ với dân tộc Việt Nam. Từ ngàn xưa, ông cha ta đã biết vận dụng sức mạnh của văn hóa, lòng nhân nghĩa để giành thắng lợi. Nguyễn Trãi từng khẳng định trong Bình Ngô đại cáo: “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo”

Sức mạnh ấy đã trở thành “vũ khí tinh thần” vô giá giúp dân tộc ta chiến thắng những thế lực ngoại xâm hùng mạnh nhất. Trong thế kỷ XX, tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường, lòng nhân ái - tất cả đều là giá trị văn hóa - đã tạo nên chiến thắng Điện Biên Phủ (1954) và Đại thắng mùa Xuân (1975), góp phần làm “chấn động địa cầu”.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiếp tục phát huy sức mạnh văn hóa để làm nên những chiến thắng “Lừng lẫy năm châu, Chấn động địa cầu(1) trong hai cuộc kháng chiến chống xâm lược. Trong Di chúc, Bác Hồ khẳng định: “Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to - là Pháp và Mỹ; và đã góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc”.

Trong bối cảnh hiện nay, xu hướng toàn cầu hóa ngày càng mạnh mẽ dựa trên nền tảng công nghệ số hóa và thương mại điện tử phủ khắp toàn cầu, "sức mạnh mềm" có tính truyền dẫn siêu mạnh, vượt qua thời gian, không gian, có tác động to lớn đối với phương thức sinh hoạt và chuẩn mực hành vi của con người. Vì vậy, vấn đề bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc là một đòi hỏi rất cấp thiết. 

Văn hóa Việt Nam là một dòng chảy liên tục, được kế thừa và phát triển, với sự chung tay góp sức của cộng đồng 54 dân tộc anh em trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó chính là vốn quý cần phải được trân trọng, giữ gìn và phát huy trong bối cảnh mới.   

Tuy nhiên, các thế lực thù địch luôn luôn sử dụng “vũ khí văn hóa” để lôi cuốn giới trẻ vào những sinh hoạt văn hóa được gọi là “thời thượng” nhằm làm cho tầng lớp thanh thiếu niên Việt Nam phai nhạt lý tưởng, xa rời các giá trị văn hóa dân tộc, bắt chước các yếu tố ngoại lai… tức là làm “mất bản sắc văn hóa dân tộc”.

Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc (2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã lưu ý những hạn chế như: “…chưa coi trọng đúng mức và có biện pháp tích cực để giữ gìn, bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp, đặc sắc của dân tộc; nhiều khi bắt chước nước ngoài một cách nhố nhăng, phản cảm, không có chọn lọc”.

Điều đáng quan tâm hơn là không chỉ có lớp trẻ mà ngay cả những cán bộ, đảng viên kỳ cựu, những người có vị trí cao trong xã hội cũng không ít trường hợp sa ngã, thoái hóa biến chất, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa".

Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta cần đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, thấm nhuần và hành động theo lời dạy của Người: “nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”.

Thực tiễn phát huy sức mạnh mềm của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập

Trong những năm gần đây, Việt Nam đã từng bước khẳng định vị thế quốc gia không chỉ bằng tiềm lực kinh tế - chính trị mà còn nhờ “sức mạnh mềm” bắt nguồn từ văn hóa, con người và hình ảnh đất nước. Thực tiễn cho thấy, sức mạnh mềm của Việt Nam đã và đang được phát huy trên nhiều phương diện:

Một, ngoại giao văn hóa - xây dựng hình ảnh quốc gia thân thiện, hòa hiếu

Việt Nam tổ chức thành công nhiều sự kiện quốc tế lớn: APEC 2017, Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ - Triều (2019), SEA Games 31 (2022)… Đây là minh chứng cho năng lực tổ chức, sự thân thiện và uy tín quốc tế.

Chính sách đối ngoại “đa phương hóa, đa dạng hóa” cùng thông điệp “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế” đã nâng cao hình ảnh đất nước.

Thông qua các hoạt động giao lưu nhân dân, hợp tác văn hóa, Việt Nam đã xây dựng cầu nối hữu nghị với nhiều quốc gia.

Hai, di sản văn hóa và du lịch - “thương hiệu” sức mạnh mềm

Việt Nam hiện có 29 di sản được UNESCO công nhận, trong đó có di sản vật thể (phố cổ Hội An, vịnh Hạ Long, quần thể di tích Cố đô Huế…) và di sản phi vật thể (nhã nhạc cung đình Huế, ca trù, quan họ Bắc Ninh, đờn ca tài tử Nam Bộ…).

Lễ hội truyền thống như Hội Gióng, Lễ hội Đền Hùng, chợ nổi miền Tây… không chỉ mang giá trị tâm linh, tinh thần mà còn trở thành sản phẩm du lịch hấp dẫn.

Năm 2024, ngành Du lịch Việt Nam đã đón hơn 17,5 triệu lượt khách quốc tế, đạt mục tiêu đề ra và tăng 39,5% so với năm trước, cùng với đó là 110 triệu lượt khách nội địa. Kết quả này cho thấy sự phục hồi mạnh mẽ của du lịch Việt Nam nhờ chính sách thị thực thông thoáng và nỗ lực xúc tiến quảng bá.

Tính chung 8 tháng đầu năm 2025, tổng lượng khách quốc tế đạt gần 14 triệu lượt, tăng 21,7% so với cùng kỳ năm 2024.  

Ba, ẩm thực - “đại sứ văn hóa” trong đời sống toàn cầu

Các món ăn Việt Nam như phở, bánh mì, gỏi cuốn, cà phê sữa đá đã được nhiều tạp chí uy tín (CNN, Lonely Planet, The Guardian…) ca ngợi và lọt top món ăn ngon nhất thế giới.

“Bánh mì Việt Nam” đã trở thành cụm từ phổ biến toàn cầu, được UNESCO vinh danh là biểu tượng ẩm thực độc đáo.

Ẩm thực trở thành kênh quảng bá hữu hiệu, góp phần khẳng định sự sáng tạo, tinh tế và bản sắc Việt Nam…

Bốn, thể thao và nghệ thuật - niềm tự hào, sự lan tỏa mạnh mẽ

Bóng đá Việt Nam với những thành tích tại AFF Cup 2018, SEA Games, Vòng loại World Cup… đã trở thành biểu tượng tinh thần, khơi dậy niềm tự hào dân tộc.

Các vận động viên Việt Nam giành huy chương tại Olympic, ASIAD, SEA Games góp phần nâng tầm hình ảnh Việt Nam trên đấu trường quốc tế.

Nghệ thuật đương đại, âm nhạc trẻ, điện ảnh Việt Nam cũng từng bước vươn ra thế giới.

Năm, cộng đồng người Việt ở nước ngoài -“cầu nối văn hóa” toàn cầu

Hơn 5,3 triệu kiều bào tại 130 quốc gia, vùng lãnh thổ vừa là “sứ giả văn hóa” vừa góp phần giữ gìn, lan tỏa tiếng Việt, ẩm thực, phong tục tập quán.

Các hội đoàn người Việt ở Mỹ, châu Âu, Úc thường xuyên tổ chức lễ hội Tết Nguyên đán, ngày Quốc khánh, qua đó giới thiệu văn hóa Việt Nam đến bạn bè quốc tế.

Lực lượng trí thức kiều bào còn tham gia vào phát triển khoa học, công nghệ, giáo dục, tạo sức mạnh mềm về tri thức cho đất nước.

Sáu, văn hóa số - kênh quảng bá mới trong thời đại 4.0

Nhiều sản phẩm văn hóa Việt Nam đã được lan tỏa mạnh mẽ qua TikTok, YouTube, Facebook: điệu nhảy, bài hát, phong cảnh Việt Nam được cộng đồng mạng quốc tế hưởng ứng.

Các bộ phim chiếu trên Netflix, ca khúc nhạc Việt lọt bảng xếp hạng quốc tế là minh chứng cho việc sức mạnh mềm Việt Nam đang có “sân chơi toàn cầu”.

Việc ứng dụng công nghệ số giúp di sản, du lịch, nghệ thuật Việt tiếp cận đông đảo bạn bè năm châu.

Những thách thức trong hội nhập văn hóa

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập văn hóa vừa mang đến nhiều cơ hội lan tỏa giá trị, vừa đặt ra không ít thách thức cho Việt Nam. Các nguy cơ này nếu không nhận diện và xử lý kịp thời sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến bản sắc, sức mạnh mềm và sự phát triển bền vững của đất nước.

Một, nguy cơ phai nhạt bản sắc dân tộc

Sự du nhập mạnh mẽ của các luồng văn hóa ngoại lai qua Internet, mạng xã hội, phim ảnh, âm nhạc khiến một bộ phận giới trẻ dễ bị cuốn theo trào lưu thời thượng mà xem nhẹ truyền thống.

Nhiều bạn trẻ thuộc thế hệ Gen Z thuộc lòng ca khúc quốc tế, thần tượng sao ngoại, nhưng lại ít quan tâm đến dân ca, ca trù, tuồng, chèo - vốn là tinh hoa của dân tộc.

Điều này dẫn tới sự “đứt gãy” trong tiếp nối văn hóa giữa các thế hệ.

Hai, thương mại hóa và “lai căng” trong văn hóa

Không ít lễ hội truyền thống bị biến tướng, mang tính phô trương, thương mại hóa, chạy theo lợi nhuận mà làm mất đi ý nghĩa ban đầu.

Một số sản phẩm văn hóa hiện đại (ca nhạc, gameshow, phim ảnh) sao chép thiếu chọn lọc mô hình nước ngoài, dẫn đến lai căng, nhạt nhòa bản sắc.

Điều này khiến văn hóa Việt Nam đôi khi bị “hòa tan” thay vì tỏa sáng trong hội nhập.

Ba, sự tấn công của văn hóa độc hại, phản văn hóa

Các thế lực thù địch lợi dụng Internet để truyền bá quan điểm sai trái, kích động lối sống thực dụng, ích kỷ, xa rời lý tưởng cách mạng.

Một số ấn phẩm, clip, trò chơi điện tử chứa nội dung bạo lực, dung tục, phản cảm đang tác động tiêu cực tới một bộ phận thanh thiếu niên.

Nguy cơ hình thành lớp trẻ thiếu định hướng, “sống ảo”, lệch chuẩn thẩm mỹ, xa rời các giá trị tốt đẹp.

Bốn, thách thức từ công nghệ số và toàn cầu hóa thông tin

Công nghệ số vừa mở rộng cơ hội quảng bá văn hóa, vừa khiến ranh giới giữa các nền văn hóa bị xóa nhòa.

Người Việt, đặc biệt là giới trẻ, dễ tiếp cận văn hóa ngoại lai nhanh hơn, mạnh hơn so với văn hóa truyền thống dân tộc.

Việc quản lý, định hướng thông tin văn hóa trên không gian mạng còn nhiều hạn chế, dễ để lọt nội dung sai trái, phản văn hóa.

Năm, suy thoái trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và người dân

Không ít cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu trong lối sống, vi phạm đạo đức, tham nhũng, lãng phí… gây tác động xấu đến niềm tin của nhân dân và văn hóa chính trị.

Một bộ phận người dân chạy theo lối sống thực dụng, đề cao vật chất, coi nhẹ giá trị tinh thần, làm giảm đi sức hấp dẫn của văn hóa Việt Nam.

Sáu, áp lực từ quá trình đô thị hóa và hội nhập kinh tế

Đô thị hóa nhanh khiến nhiều di sản, làng nghề truyền thống bị mai một, môi trường văn hóa cộng đồng bị thu hẹp.

Hội nhập kinh tế toàn cầu đòi hỏi “chuẩn quốc tế” trong khi nhiều sản phẩm văn hóa Việt Nam chưa đủ sức cạnh tranh.

Điều này làm nảy sinh mâu thuẫn giữa “bảo tồn” và “phát triển”, giữa “giữ gìn bản sắc” và “mở cửa hội nhập”.

Giải pháp phát huy sức mạnh mềm Việt Nam trong thời kỳ mới

Trong thời đại toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0, “sức mạnh mềm” đã trở thành chỉ số cạnh tranh quan trọng của mỗi quốc gia. Với Việt Nam, sức mạnh mềm chính là sức mạnh văn hóa, con người, bản sắc dân tộc và những giá trị truyền thống được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước, giữ nước. Để phát huy tối đa nguồn lực này, cần triển khai đồng bộ những giải pháp cụ thể sau:

Một, tăng cường giáo dục văn hóa, lịch sử trong hệ thống giáo dục quốc dân

Đưa nội dung văn hóa dân tộc vào chương trình học: Không chỉ dừng lại ở sách giáo khoa, cần đa dạng hóa hình thức giáo dục như phim tư liệu, kịch bản tương tác, câu chuyện lịch sử để học sinh dễ tiếp thu.

Tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo: Tham quan di tích, bảo tàng, lễ hội truyền thống, làng nghề… giúp thế hệ trẻ “học từ thực tế”, hình thành niềm tự hào và ý thức trách nhiệm với văn hóa dân tộc.

Đổi mới phương pháp dạy học: Vận dụng công nghệ, mô hình lớp học đảo ngược, học qua dự án để khơi gợi tính chủ động, sáng tạo của học sinh trong việc tìm hiểu văn hóa Việt Nam.

Hai, phát triển công nghiệp văn hóa gắn với kinh tế sáng tạo

Thực hiện hiệu quả Nghị quyết 33-NQ/TW (2014) và Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2030, trong đó coi văn hóa là động lực phát triển kinh tế - xã hội.

Đầu tư trọng điểm cho các ngành có lợi thế: Điện ảnh, âm nhạc, mỹ thuật, thời trang, du lịch văn hóa – những lĩnh vực vừa bảo tồn bản sắc vừa tạo giá trị kinh tế cao.

Hỗ trợ khởi nghiệp văn hóa: Khuyến khích doanh nghiệp, nhất là thanh niên khởi nghiệp trong lĩnh vực ẩm thực, du lịch, thiết kế sáng tạo, đưa sản phẩm văn hóa Việt Nam vươn ra thế giới.

Kết hợp truyền thống với hiện đại: Chẳng hạn, cải biên dân ca, nhạc cụ dân tộc thành sản phẩm âm nhạc đương đại; thiết kế thời trang ứng dụng họa tiết truyền thống; phát triển sản phẩm lưu niệm mang dấu ấn văn hóa địa phương.

Ba, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong quảng bá văn hóa

Xây dựng bản đồ số di sản Việt Nam: Tích hợp dữ liệu về di sản văn hóa, di tích lịch sử, lễ hội… dưới dạng 3D, thực tế ảo để người dân và du khách có thể tiếp cận dễ dàng.

Sản xuất nội dung số về văn hóa Việt Nam: Phim tài liệu, game, hoạt hình, podcast về lịch sử - văn hóa; các kênh YouTube, TikTok chất lượng cao để lan tỏa thông điệp tích cực.

Ứng dụng nền tảng trực tuyến toàn cầu: Quảng bá ẩm thực, du lịch, nghệ thuật Việt Nam trên Netflix, Spotify, Amazon, Facebook, Instagram… để tiếp cận bạn bè năm châu.

Khuyến khích giới trẻ sáng tạo nội dung số: Hỗ trợ các dự án khởi nghiệp công nghệ gắn với văn hóa, tạo thế hệ “sứ giả số” quảng bá văn hóa Việt Nam.

Bốn, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, nhân văn

Hoàn thiện thể chế, chính sách quản lý văn hóa: Xử lý nghiêm các hành vi xuyên tạc, phản văn hóa; tăng cường kiểm duyệt nội dung trên không gian mạng.

Nâng cao đời sống văn hóa ở cơ sở: Xây dựng nếp sống văn minh, lành mạnh trong cộng đồng dân cư, cơ quan, trường học; giữ gìn, tôn vinh thuần phong mỹ tục.

Đẩy mạnh các phong trào văn hóa -văn nghệ quần chúng: “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” gắn với giữ gìn giá trị truyền thống.

Năm, phát huy vai trò thế hệ trẻ trong bảo tồn và đổi mới văn hóa

Đưa thanh niên trở thành lực lượng nòng cốt: Trong việc sáng tạo sản phẩm văn hóa mới, đưa giá trị truyền thống vào nghệ thuật, âm nhạc, điện ảnh, thời trang đương đại.

Khuyến khích khởi nghiệp từ văn hóa: Tổ chức các cuộc thi, giải thưởng sáng tạo văn hóa dành cho giới trẻ; xây dựng quỹ hỗ trợ dự án khởi nghiệp trong lĩnh vực này.

Xây dựng hình mẫu thanh niên Việt Nam thời kỳ hội nhập: Tự tin, năng động, sáng tạo, hội nhập quốc tế nhưng vẫn giữ được bản lĩnh và bản sắc dân tộc.

Sáu, nêu gương văn hóa trong đội ngũ cán bộ, đảng viên

Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh: Cán bộ, đảng viên phải là tấm gương trong lối sống giản dị, trung thực, chí công vô tư, giữ gìn lối sống giản dị, trong sạch, gắn bó với nhân dân.

Đề cao trách nhiệm nêu gương: Người đứng đầu cơ quan, tổ chức cần tiên về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa".

Xây dựng hình ảnh người cán bộ “trí tuệ - nhân văn - liêm chính”: Đây chính là biểu hiện cụ thể của sức mạnh mềm trong bộ máy lãnh đạo, quản lý. Người cán bộ “trí tuệ - nhân văn - liêm chính” chính là hình ảnh đẹp, là sức mạnh mềm tạo nên niềm tin, sự đồng thuận xã hội, là nền tảng để chính quyền hai cấp hoạt động hiệu quả, gắn bó mật thiết với nhân dân. Đây không chỉ là yêu cầu về đạo đức công vụ, mà còn là chiến lược để xây dựng một nền hành chính hiện đại, minh bạch, vì dân phục vụ.

Kết luận

Trong thế kỷ XXI, sức mạnh mềm đã trở thành “chỉ số cạnh tranh quốc gia”. Với Việt Nam, đó chính là văn hóa - hồn cốt dân tộc, nền tảng tinh thần và động lực phát triển. Phát huy sức mạnh văn hóa không chỉ là trách nhiệm của Đảng và Nhà nước mà còn là nghĩa vụ và niềm tự hào của mỗi người dân.

Mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi bạn trẻ đều là một “sứ giả văn hóa”, góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam nhân văn, yêu hòa bình, giàu bản sắc. Tin tưởng rằng, bằng việc chấn hưng và phát huy sức mạnh mềm, đất nước ta sẽ ngày càng “có cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế” cao hơn, vững bước trên con đường hội nhập và phát triển bền vững.

Chúng ta tin tưởng rằng, cuộc chấn hưng văn hóa Việt Nam sẽ đạt được thành công. Bởi vì, “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là một lợi thế cực kỳ to lớn để chúng ta tăng cường lòng tự hào dân tộc, quyết tâm đổi mới và chấn hưng văn hoá Việt Nam trong thời kỳ mới” (2).

TRẦN BÁ CƯỜNG (Trường THPT Tân Long)

(1)Thơ Tố Hữu

(2) Bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị văn hóa toàn quốc (2021).

Tài liệu tham khảo:

[1] Hồ Chí Minh (1969). Di chúc. https://baochinhphu.vn/toan-van-di-chuc-cua-chu-tich-ho-chi-minh-102169104.htm

[2] Nguyễn Phú Trọng (2021) Bài phát biểu tại Hội nghị văn hóa toàn quốc ngày 24/11/2021.https://moit.gov.vn/tin-tuc/hoat-dong/toan-van-phat-bieu-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-tai-hoi-nghi-van-hoa-toan-quoc.html

[3] Nye, J.S. (1990), Bound to Lead: The Changing Nature of American Power (New York: Basic Books). Nye, J.S. (2006), Think Again: Soft Power, https://foreignpolicy.com/2006/02/23/think-again-soft-power/

Chia sẻ bài viết