ĐBSCL là vùng sản xuất nông nghiệp trọng điểm, có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội và cung cấp nhiều mặt hàng xuất khẩu quan trọng cho đất nước. Song, do còn hạn chế về các cơ sở hạ tầng nên nhiều sản phẩm nông nghiệp của vùng chưa thể xuất khẩu trực tiếp bằng đường biển ra thế giới mà phải thông qua các cảng ở TP Hồ Chí Minh và Bà Rịa-Vùng Tàu. Muốn nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa và thúc đẩy vùng ĐBSCL phát triển tương xứng với tiềm năng, đòi hỏi phải sớm xây dựng cho vùng các trung tâm logistics mang tầm cỡ khu vực và quốc tế. Đây cũng chính là vấn đề được nhiều đại biểu nêu ra tại hội thảo "Chiến lược phát triển hệ thống logistics vùng ĐBSCL giai đoạn 2015-2020, định hướng đến năm 2030" vừa diễn ra tại TP Cần Thơ.
* Vận chuyển hàng hóa còn gặp khó
Theo Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ, ĐBSCL nằm liền kề với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (vùng phát triển năng động nhất Việt Nam) và tiếp giáp các nước Đông Nam Á - khu vực kinh tế năng động và phát triển là những thị trường và đối tác quan trọng. Ngoài hệ thống sinh thái đa dạng của vùng nước ngọt, lợ và mặn đan xen, ĐBSCL là khu vực duy nhất cả nước tiếp giáp biển Đông và biển Tây với bờ biển dài khoảng 750km, chiếm 23% chiều dài bờ biển cả nước và có 360.000 km2 vùng kinh tế đặc quyền, có gần 200 đảo và quần đảo, đặc biệt có đảo Phú Quốc lớn nhất Việt Nam. Không chỉ là vùng sản xuất lương thực trọng điểm, ĐBSCL còn có điều kiện thuận lợi để phát triển chăn nuôi theo quy mô lớn, nhất là nuôi thủy hải sản ven biển, trên sông, các vùng chuyên canh cây ăn trái chất lượng cao. Hằng năm, ĐBSCL sản xuất 55,5% sản lượng lúa hàng hóa, 70% sản lượng trái cây và khoảng 69% sản lượng thủy sản cả nước; đồng thời đóng góp hơn 90% sản lượng gạo và 60% sản lượng thủy sản xuất khẩu cả nước. Tuy nhiên, phát triển kinh tế-xã hội của vùng ĐBSCL chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế sẵn có, nhất là giá trị ngành hàng nông-thủy sản còn thấp và không ổn định. Thời gian qua, dù kết cấu hạ tầng giao thông và hệ thống logistics của vùng ĐBSCL đã được quan tâm đầu tư phát triển nhưng vẫn chưa đồng bộ. Vận chuyển hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ của vùng còn gặp khó; phần lớn xuất khẩu nông sản phải trung chuyển qua các cảng ở TP Hồ Chí Minh (Cát Lái) và Bà Rịa Vũng Tàu (Cái Mép-Thị Vải) khiến tốn nhiều thời gian và chi phí, ảnh hưởng đến lợi thế cạnh hàng hóa của vùng.
 |
Vận tải lúa gạo bằng đường thủy tại huyện Thới Lai, TP Cần Thơ. |
Theo ông Nguyễn Công Bằng, Phó vụ Trưởng Vụ Vận Tải, Bộ Giao thông Vận tải, hiện mối liên kết vận tải bằng đường bộ nội vùng và khu vực tại ĐBSCL còn rất hạn chế do mạng lưới đường bộ trong vùng chưa phát triển đồng bộ cả về số lượng và chất lượng do bị sông, kênh rạch chia cắt nhiều, nguy cơ ngập lụt thường xuyên. Sự phối hợp giữa 2 phương thức giao thông thủy và bộ trong vùng cũng chưa tốt do kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ và hoạt động trung chuyển giữa các loại hình vận tải chưa thuận lợi. Các tuyến đường thủy nội địa hạn chế khả năng khai thác phương tiện lớn, tốc độ cao, đồng thời hệ thống bến bãi và các dịch vụ đầu cuối cũng chưa phát triển làm cho vận tải thủy nội địa chưa phát huy lợi thế. Hệ thống bến, bãi thủy nội địa cũng chưa có quy mô, chưa được đẩy mạnh cơ giới hóa và chưa đáp ứng các hình thức vận tải đa phương thức. Hầu hết, các cảng biển ở ĐBSCL đều có đường bộ kết nối với mạng quốc gia khá thuận tiện (trừ cảng Năm Căn-Cà Mau và Cảng An Thới-Phú Quốc, Kiên Giang), nhưng không có đường sắt kết nối đến cảng. Hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics trong vùng hiện còn nhỏ, chưa có các ICD (cảng cạn) hay hệ thống kho gom hàng tiêu chuẩn.
Theo ông Phạm Anh Tuấn, Phó Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Tư vấn thiết kế cảng-Kỹ thuật biển (Portcoast), thời gian qua, khoảng 70% lượng hàng hóa của vùng được vận chuyển bằng đường thủy. Từ năm 2010 đến nay, dự kiến lượng hàng tổng hợp container có nhu cầu vận chuyển bằng đường biển của ĐBSCL từ 23 - 37 triệu tấn/năm. Tuy nhiên, do các điều kiện hạ tầng giao thông thủy, cảng biển và logistics trong vùng chưa đáp ứng yêu cầu, nên phần lớn hàng hóa xuất khẩu của vùng phải vận chuyển lên các các cảng ở TP Hồ Chí Minh và Bà Rịa Vũng Tàu. Lượng hàng tổng hợp container qua các cảng biển ở ĐBSCL chỉ chiếm khoảng 22,3-24% so với tổng nhu cầu.
*Nhu cầu cấp thiết
Ngày 3-7-2015, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 1012/QĐ-TTg về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển hệ thống trung tâm logistics trên địa bàn cả nước đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Theo đó, đến năm 2020, cả nước có 18 trung tâm logistics hoạt động, trong đó 3 trung tâm hạng 1 và 15 trung tâm hạng 2. Tại ĐBSCL sẽ có 2 trung tâm hạng 2 đi vào hoạt động. Trong đó, một trung tâm logistics có quy mô tối thiểu 30ha vào năm 2020 và phát triển 70ha vào năm 2030 phục vụ TP Cần Thơ và các tỉnh Hậu Giang, Kiên Giang, An Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Cà Mau. Còn lại một trung tâm phục vụ cho các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre và Vĩnh Long.
Ông Lê Duy Hiệp, Phó Chủ tịch Hiệp hội Các doanh nghiệp logistics Việt Nam, cho rằng: Hiện tỷ trọng chi phí logistics so với GDP của Việt Nam ở mức 20- 25% là quá cao, cao nhiều lần so với các nước trong khu vực, nhất là so với Singapore (9%), Thái Lan (14%). Xây dựng, phát triển và nâng cấp chuỗi cung ứng và dịch vụ logistics tại ĐBSCL và cả nước nói chung trong bối cảnh hội nhập hiện nay là rất cấp thiết, nhằm kết nối vận chuyển hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ nhanh nhất, chi phí thấp hơn, bảo quản tốt chất lượng hành hóa và kiểm soát rủi ro. Ông Lê Văn Hỷ, Tổng Biên tập Tạp chí Vietnam Logistics Review, cũng cho rằng: "Trong xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa, đòi hỏi chuỗi cung ứng-dịch vụ logistics-hệ thống giao thông vận tải tại ĐBSCL phải liên kết, hòa nhập với cả nước và các nước trên thế giới ở nhiều phương diện để thúc đẩy nhanh quá trình tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập cho người lao động".
Theo ông Nguyễn Phong Quang, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, kết quả nghiên cứu của nhiều quốc gia cho thấy, nếu phát triển tốt năng lực logistics có thể làm cho thương mại các nước thu nhập thấp hay trung bình tăng trưởng đến 15%, đồng thời mang lại cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và người tiêu dùng sản phẩm giá rẻ, chất lượng dịch vụ đảm bảo hơn. "Xây dựng trung tâm logistics cho vùng là vấn đề cấp bách và cần thiết. Đây sẽ là trung tâm dịch vụ hậu cần đa phương tiện trong lưu thông và phân phối hàng hóa trong nước và xuất nhập khẩu cho vùng. Hoạt động tốt của trung tâm logistics sẽ giảm thiểu tối đa chi phí đầu vào nhằm tăng giá trị gia tăng hàng hóa đối với các mặt hàng chủ lực của vùng ĐBSCL. Được Trung ương xác định là trung tâm động lực phát triển của vùng, Cần Thơ là nơi phù hợp để xây dựng trung tâm logistics của vùng" ông Nguyễn Phong Quang khẳng định.
Bài, ảnh: Khánh Trung
* Ông Trần Tuấn Anh, Thứ trưởng Bộ Công Thương:
TP Cần Thơ hội tụ đủ các điều kiện để xây dựng trung tâm logistics cấp vùng
Trung tâm logistics có vai trò rất then chốt và mang tính sống còn trong bối cảnh hiện nay để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa, thúc đẩy phát triển vùng ĐBSCL. TP Cần Thơ là nơi hội tụ các điều kiện cần thiết để xây dựng một trung tâm logistics cấp vùng, có khả năng lan tỏa, kết nối phát triển cho cả vùng.
Với nhiệm vụ được Chính phủ giao làm đầu mối trong thúc đẩy xây dựng và phát triển các trung tâm logistics, Bộ Công thương sẽ tích cực phối hợp với các bộ, ngành Trung ương và địa phương xác định nhu cầu đầu tư và vị trí cụ thể của các trung tâm logistics. Mặt khác, kịp thời tham mưu, đề xuất, nhanh chóng hoàn thiện các cơ chế chính sách, hình thức đầu tư và tạo điều kiện để cộng đồng doanh nghiệp tham gia đầu tư phát triển các trung tâm logistics ở ĐBSCL và cả nước.
*Ông Nguyễn Văn Hiếu, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu Tư:
Các doanh nghiệp logistics trong nước cần liên kết thành chuỗi mắt xích
Nhìn chung, ngành logistics Việt Nam dù còn non trẻ nhưng nhiều doanh nghiệp đã phát triển nhanh các dịch vụ tích hợp, tạo được giá trị gia tăng cao. Song, phải nhìn nhận, doanh nghiệp logistics nước ta còn chiếm vị trí nhỏ trong hệ thống logistics của khu vực và thế giới.
Để nâng cao sức cạnh tranh, các doanh nghiệp logistics trong nước cần liên kết với nhau thành chuỗi mắt xích, bổ sung cho nhau. Song song đó, Nhà nước và các tổ chức hiệp hội cần quan tâm, hỗ trợ doanh nghiệp trong tiếp cận vốn để đầu tư phát triển các cơ sở vật chất, dịch vụ, rút ngắn thời gian thông quan hàng hóa
*Ông Phạm Việt Bắc, Phó Giám đốc Sở Công thương TP Cần Thơ:
Cần Thơ đã quy hoạch bố trí quỹ đất phát triển trung tâm logistics
Năm 2013, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 1515/QĐ-TTg ngày 28-8-2013 về việc phê duyệt đồ án điều chỉnh Quy hoạch chung TP Cần Thơ đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050. Căn cứ quy hoạch này, khu đô thị công nghiệp Cái Răng được thành phố xác định là trung tâm công nghiệp và dịch vụ cảng, đầu mối giao thông về đường bộ và đường sắt, trung tâm tiếp cận về dịch vụ-thương mại và dịch vụ hậu cần-kho bãi (logistics) cấp vùng. Quỹ đất quy hoạch phát triển hệ thống trung tâm logistics được phê duyệt tại Cái Răng với diện tích 40,5 ha.
Để đáp ứng diện tích quy hoạch trung tâm logistics 70ha giai đoạn II theo Quyết định số 1012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, UBND thành phố trên cơ sở từ khu đất đã có quy hoạch khoảng 40,5ha, mở rộng diện tích lên 74ha. Bên cạnh lợi thế về quỹ đất, vị trí địa lý, giao thông, TP Cần Thơ cũng có chính sách khuyến khích, hỗ trợ đầu tư trung tâm dịch vụ logistics... đáp ứng nhu cầu trung tâm logistics cấp vùng.
* Ông Lê Hoàng Linh, Phó Tổng Giám đốc Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn:
Đẩy mạnh xuất nhập khẩu trực tiếp tại các cảng biển khu vực
Song song với việc đẩy nhanh hoàn thiện kết cấu hạ tầng, giao thông tại vùng ĐBSCL Nhà nước cần có chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư phát triển vận tải thủy. Ưu tiên phát triển phương tiện thủy - vận tải container, hạn chế, kiểm soát gia tăng các phương tiện nhỏ. Khuyến khích các doanh nghiệp lớn, nhất là doanh nghiệp trong nước triển khai dịch vụ vận tải đa phương thức, dịch vụ logistics trọn khâu, kết nối các đầu mối vận tải nhằm giảm áp lực cho vận tải bộ (tuyến đường dài).
Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan cần nghiên cứu có giải pháp thông quan hàng hóa xuất nhập khẩu trực tiếp tại các cảng biển Tây Nam bộ; cho phép hàng hóa xuất nhập khẩu tuyến Campuchia-Việt Nam được ghé các cảng biển trong khu vực trực tiếp giao, nhận hàng hóa kể cả đóng rút, sang container hàng nông sản của Campuchia quá cảnh tại cảng biển ĐBSCL để xuất khẩu đến nước thứ 3.
K.Trung (lược ghi) |