PHAN TẤN HÙNG
Năm nay kỷ niệm 30 năm ngày mất của nhà thơ Hoàng Trung Thông. Ông vừa được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Hai câu thơ quen thuộc “Bàn tay ta làm nên tất cả/ Có sức người sỏi đá cũng thành cơm” đề cao tinh thần lao động trong “Bài ca vỡ đất” giản dị, sâu sắc mang tính triết lý nhân sinh, phần nào thể hiện tinh thần thi ca trong suốt sự nghiệp của ông.

Nhà thơ Hoàng Trung Thông (1925-1993). Ảnh: TL
Nhà thơ Hoàng Trung Thông sinh ngày 5-5-1925, quê ở xã Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An và mất ngày 4-1-1993 tại Hà Nội. Ông từng làm Tổng biên tập Báo Văn Nghệ và Tổng biên tập Tạp chí Tác Phẩm Mới của Hội Nhà văn Việt Nam, Giám đốc NXB Văn Học, Vụ trưởng Vụ Văn nghệ Ban Tuyên huấn Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương), Viện trưởng Viện Văn học…
Với vai trò nhà nghiên cứu văn học, tác giả Hoàng Trung Thông viết các tập phê bình, tiểu luận: “Chặng đường mới của văn học chúng ta” (1961), “Cuộc sống thơ và thơ cuộc sống” (1979)… Ông còn là dịch giả Hán văn và Nga văn, với các tác phẩm dịch thuật về thơ Đỗ Phủ, Lục Du, Pushkin, Mayakovsky, Simonov… và tham gia dịch, nghiên cứu thơ thời Lý - Trần, đề thơ ở từ đường Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan. Đặc biệt, ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu hàng đầu thế hệ kháng chiến chống Pháp, xuất bản các tập thơ: “Đường chúng ta đi” (1960), “Những cánh buồm” (1964), “Đầu sóng” (1968), “Tiếng thơ không dứt” (1989)...
Những chức vị của tác giả Hoàng Trung Thông chẳng qua là nhiệm vụ quản lý hành chính, còn chủ yếu ông là người hoạt động nghiên cứu, dịch thuật, sáng tác văn học chuyên nghiệp. Điều đó đã thể hiện qua phong thái và ứng xử của ông. PGS.TS Lưu Khánh Thơ của Viện Văn học, cho biết: “Năm 1975 nhà thơ Hoàng Trung Thông về làm Viện trưởng Viện Văn học theo lời mời của Giáo sư Đặng Thai Mai. Nhà thơ Hoàng Trung Thông có tác phong giản dị gần gũi của một cán bộ quần chúng và sự phóng khoáng, thoải mái của người nghệ sĩ, nên các lớp cán bộ trẻ rất dễ gần. Ông ghé vào đâu, anh em có thể thoải mái nói chuyện hàng giờ với ông. Gặp ở ngoài đường, có thể cùng nhau tạt vào một quán nước chè, muốn bàn gì với ông cũng nhanh và tiện”.
Vào thời điểm khi nhà thơ Hoàng Trung Thông đang là Viện trưởng Viện Văn học, có chủ trương của Nhà nước phong học hàm Giáo sư cho các chuyên gia ở viện nghiên cứu. Dù nhà thơ Hoàng Trung Thông được ủng hộ tuyệt đối nhưng ông đã nói: “Tôi là nhà thơ. Thế đủ rồi. Còn giáo sư gì nữa”. PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn, nguyên Viện phó Viện Văn học, nhìn nhận: “Nhiều ý kiến cho rằng, thơ Hoàng Trung Thông có phần tỉnh táo, hiển ngôn, thiếu phần mượt mà. Thực tế, thơ ông giàu suy tư, suy tưởng và chân tình, chân thành, chân thật. Với Hoàng Trung Thông, chính sự chân thật đã “cứu” thơ ông, giúp thơ ông gần với đời, gần với lối nói mộc mạc, bình dị”. Cùng với “Bài ca vỡ đất” viết từ năm 1948, “Anh chủ nhiệm” viết năm 1962 là hai bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Hoàng Trung Thông khắc ghi hình ảnh một thời về con người và đất nước:
“Nắng chiều thấp thoáng ngọn cây tre
Sóng lúa mênh mông cuộn đổ về
Anh cùng tôi bước trên đê nhỏ
Áo nâu bạc màu bay với gió
Anh giơ tay vẽ giữa đồng xanh
Vẽ cả ngày mai thành bức tranh”
Bài thơ “Anh chủ nhiệm” là kết quả từ một chuyến đi thực tế sáng tác ở Nam Định của nhà thơ Hoàng Trung Thông cùng đoàn nhà văn được sự hướng dẫn của tác giả tiểu thuyết “Bão biển” - nhà văn Chu Văn, lúc ấy đang là Trưởng ty Văn hóa tỉnh Nam Hà (về sau tách trở lại thành hai tỉnh Nam Định và Hà Nam). Hình ảnh nhân vật trong bài thơ của Hoàng Trung Thông là ông Trần Sĩ Tưởng - Chủ nhiệm Hợp tác xã cấp cao Mỹ Thắng tiên tiến ở huyện chiêm trũng Bình Lục, vùng quê ven sông Châu.
Khi rời mọi chức trách văn nghệ, phẩm chất nghệ sĩ càng thể hiện mạnh mẽ trong thơ Hoàng Trung Thông. Tập thơ cuối cùng “Mời trăng” xuất bản năm 1992 của ông mang tính hướng nội, phản ánh những xung động khắc khoải bung phá vượt thoát trong tâm hồn. Như trong bài “Biển”, ông viết: “Tôi/ như cây/ nhổ ra/ khỏi đất// Tôi/ như cá/ ra/ khỏi/ biển khơi”.
Nhà thơ Hoàng Trung Thông còn là người thích xê dịch và yêu quý bạn bè văn nghệ, thân với các nhà thơ Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Anh Thơ, Mộng Tuyết hay các họa sĩ Nguyễn Sáng, Dương Bích Liên, Nguyễn Tư Nghiêm, Diệp Minh Châu, Mai Văn Hiến… Khi trải qua ngọt đắng thăng trầm đời người, bạn bè đồng nghiệp là điểm tựa cho cuộc sống nhẹ nhàng hơn. Như ông gửi gắm qua bài thơ “Nhìn” xúc động viết tặng họa sĩ Mai Văn Hiến: “Bên kia đường một người bơm xe/ Bên này đường một người bét nhè/ Còn tôi/ Không bơm xe, vá xe/ Không say rượu/ Tôi ngẩn ngơ trông/ Dưới gốc hòe mát rượi/ Xe có thể bơm/ Rượu có thể say/ Tôi một mình nhìn và nhớ bạn/ Thấy đời mình bớt nỗi đắng cay”.
Ngoài thơ, tác giả Hoàng Trung Thông còn có những bài viết đáng chú ý về chân dung đồng nghiệp các thế hệ. Như với nhà văn Nam Cao mà ông có dịp gặp ở Việt Bắc trước khi tác giả của “Chí Phèo” hy sinh năm 1951: “Nam Cao là người rất tỉnh. Nhưng có lúc Nam Cao cũng say. Ai đã từng uống rượu với Nam Cao thì mới biết hết tấm lòng của anh”. Những câu văn dung dị, tinh tế, sâu sắc. Hoàng Trung Thông viết cho Nam Cao mà ngỡ như viết cho chính ông!