03/11/2016 - 21:51

Nâng cao hiệu quả hoạt động vùng Kinh tế trọng điểm ở ĐBSCL

Vùng Kinh tế trọng điểm (KTTĐ) vùng ĐBSCL gồm TP Cần Thơ và các tỉnh Cà Mau, An Giang, Kiên Giang. Hội đồng vùng KTTĐ vùng ĐBSCL (gọi tắt là Hội đồng vùng) được thành lập theo Quyết định số 2059/QĐ –TTg ngày 24-11-2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Ban chỉ đạo, Hội đồng vùng KTTĐ giai đoạn 2015-2020. Vừa qua, tại TP Cần Thơ diễn ra Hội nghị Hội đồng vùng lần thứ nhất năm 2016. Hội nghị mở ra triển vọng đẩy mạnh sự liên kết, hợp tác, tìm ra tiếng nói chung giữa các địa phương để phát huy thế mạnh, góp phần khẳng định vai trò, vị trí của vùng KTTĐ vùng ĐBSCL so với cả nước.

*Nhận diện thực lực

Thời gian qua, vùng KTTĐ vùng ĐBSCL có bước phát triển quan trọng về kinh tế - xã hội, góp phần vào sự phát triển chung của vùng ĐBSCL và cả nước. Giai đoạn 2011-2015, tốc độ tăng trưởng của vùng đạt khoảng 9,74%/năm; GDP thu nhập bình quân đầu người khoảng 51 triệu đồng/người/năm; giá trị xuất khẩu đạt 4,177 tỉ USD. Cơ cấu kinh tế của vùng chuyển dịch theo hướng tích cực, hằng năm đều tăng tỷ trọng khu vực I và III, giảm dần tỷ trọng ở khu vực I.

Hạ tầng giao thông là một trong những vấn đề cần trung ương quan tâm hỗ trợ để phát triển vùng KTTĐ và cả vùng ĐBSCL. Trong ảnh: Khung cảnh nhìn từ cầu vượt nút giao thông IC3 cầu Cần Thơ.

Tuy nhiên, theo ông Võ Thành Thống, Chủ tịch UBND TP Cần Thơ, Chủ tịch Hội đồng vùng luân phiên nhiệm kỳ 2015 - 2016, bên cạnh những thành tựu đạt được, vùng KTTĐ vùng ĐBSCL vẫn còn một số hạn chế nhất định. Đó là: Chất lượng tăng trưởng chưa cao. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển, thu hút đầu tư và cải thiện đời sống nhân dân. Bên cạnh đó, chất lượng nguồn nhân lực của vùng, các chỉ số về giáo dục, đào tạo, dạy nghề trong vùng còn thấp so với mức bình quân chung của cả nước. Đặc biệt, vùng thường xuyên bị ảnh hưởng của lũ lụt, biến đổi khí hậu diễn ra nhanh hơn dự báo, nước biển dâng, hạn hán và xâm nhập mặn…

Một trong những nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trên, ông Nguyễn Trung Hiếu, Phó Trưởng ban Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ, đã chỉ ra đó là: Một số cơ chế, chính sách Trung ương ban hành chậm, chưa sát với thực tế nên việc triển khai thực hiện còn nhiều vướng mắc. Kinh tế của vùng phụ thuộc chủ yếu vào sản xuất, tiêu thụ, chế biến và xuất khẩu hàng hóa nông sản với quy mô nhỏ lẻ nên sản phẩm thiếu tính cạnh tranh. Bên cạnh đó, nhận thức về vị trí, vai trò vùng KTTĐ vùng ĐBSCL trong một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa đầy đủ; công tác quy hoạch và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội chưa có tính đột phá. Việc triển khai quy hoạch còn chậm, chưa đồng bộ và thiếu tính liên kết trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Trong khi đó cơ chế và tổ chức điều phối vùng chưa ổn định, mới đi vào hoạt động, chưa đi vào chiều sâu. Vì vậy, cần nhanh chóng tìm giải pháp hiệu quả, thiết thực để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng KTTĐ vùng ĐBSCL; trong đó nổi lên là việc thống nhất cơ chế phối hợp liên kết vùng.

*Thống nhất cơ chế liên kết

Ông Võ Thành Thống, Chủ tịch Hội đồng vùng luân phiên nhiệm kỳ 2015-2016, cho biết: Một trong những thành công lớn của Hội nghị chính là các thành viên Hội đồng vùng đã thống nhất thông qua Kế hoạch Liên kết phối hợp toàn vùng KTTĐ vùng ĐBSCL giai đoạn 2016-2020 để thực hiện trong thời gian tới. Kế hoạch hướng tới mục tiêu chung khai thác tối đa tiềm năng, cơ hội của từng địa phương xét trong lợi thế so sánh của toàn vùng KTTĐ vùng ĐBSCL trên nguyên tắc hài hòa về lợi ích, trách nhiệm và bình đẳng, cùng khai thác các cơ hội, lợi thế so sánh của vùng, góp phần khẳng định vai trò, vị trí của vùng KTTĐ vùng ĐBSCL so với cả nước.

Tại Hội nghị, nhiều nội dung của Kế hoạch này được các thành viên đánh giá cao. Bà Lê Thị Minh Phụng, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang, cho biết: Các địa phương vùng KTTĐ vùng ĐBSCL hay cả vùng ĐBSCL có nhiều điểm tương đồng trong phát triển, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, ngồi lại với nhau, tìm tiếng nói chung trong đầu tư phát triển nhằm phát huy lợi thế, đặc tính, địa hình, vị trí địa lý, thổ nhưỡng của từng tỉnh trong vùng, đồng thời cần thiết tránh tình trạng sản xuất trùng lắp cùng sản phẩm, xảy ra sự cạnh tranh trong nội bộ khu vực. Không chỉ vậy, dù được xác định là trung tâm lớn về sản xuất lúa gạo, nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thủy sản nhưng hạ tầng giao thông của vùng rất yếu kém. Điển hình như toàn vùng chỉ có một đường cao tốc duy nhất là đường cao tốc TP Hồ Chí Minh - Trung Lương nên việc vận chuyển hàng hóa nội vùng và đi cả nước gặp nhiều khó khăn. Do đó, một trong những vai trò, trách nhiệm của các thành viên trong Hội đồng vùng là hằng năm đề xuất cụ thể nội dung để thực hiện các lĩnh vực như quy hoạch; danh mục các công trình chủ yếu để phối hợp đầu tư phát triển trong từng giai đoạn là rất thiết thực.

Trên cơ sở chủ động đề xuất danh mục các công trình chủ yếu trong từng giai đoạn của các thành viên, Hội đồng vùng thống nhất kiến nghị Chính phủ, các bộ ngành trung ương, tập trung nguồn lực, hỗ trợ thực hiện một số công trình trọng điểm vùng KTTĐ vùng ĐBSCL, như: Xây dựng tuyến cao tốc Cần Thơ - Châu Đốc. Đầu tư xây dựng hoàn thiện tuyến đường Hành lang ven biển phía Nam (Giai đoạn 2: đoạn nối từ cụm Khí Điện Đạm Cà Mau đến quốc lộ 1). Nâng cấp, mở rộng quốc lộ 1 (đoạn từ thành phố Cà Mau đến Năm Căn). Dự án thi công đê và cống ngăn mặn từ thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang đến TP Cà Mau. Xây dựng các nhà máy nước Sông Hậu 1, Sông Hậu 2, Sông Hậu 3. Xây dựng Viện Công nghệ sinh học và hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất các trường đại học thuộc các tỉnh trong vùng KTTĐ...

Ngoài các công trình trọng điểm trên, ông Nguyễn Tiến Hải, Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau, cho rằng: Hiện nay, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, hạn hán, xâm nhập mặn đang là mối đe dọa rất lớn đối với phát triển vùng KTTĐ và cả vùng ĐBSCL. Chính vì vậy, thành viên Hội đồng vùng và cả các địa phương vùng ĐBSCL cần ngồi lại với nhau tìm giải pháp thực hiện khả thi và hiệu quả Quy hoạch chung phát triển kinh tế - xã hội của vùng gắn với giải pháp phát triển bền vững trong điều kiện thích ứng biến đổi khí hậu. Biến những khó khăn, thách thức, nhất là thách thức của biến đổi khí hậu thành cơ hội và động lực, nhằm thúc đẩy kinh tế - xã hội của vùng KTTĐ và cả vùng ĐBSCL phát triển nhanh và bền vững.

Bài, ảnh: Quang Đăng

Chia sẻ bài viết