Báo cáo hiện trạng môi trường biển và hải đảo quốc gia giai đoạn 2016-2020 là cơ sở định hướng và đề xuất các giải pháp nhằm quản lý hiệu quả, phòng ngừa, giảm thiểu ô nhiễm môi trường biển.
Ảnh chỉ có tính chất minh họa. (Nguồn: Trần Lê Lâm/TTXVN)
Từ sau sự cố môi trường biển Formosa xảy ra ở 4 tỉnh ven biển miền Trung vào đầu năm 2016, chất lượng môi trường biển ở nước ta duy trì khá tốt, tuy nhiên tại một số khu vực nuôi trồng thuỷ sản, khu vực cửa sông, cảng biển, môi trường nước biển vẫn còn bị ô nhiễm cục bộ...
Đây là nội dung đáng chú ý của “Báo cáo hiện trạng môi trường biển và hải đảo quốc gia giai đoạn 2016-2020” vừa được Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà ký ban hành.
Môi trường biển chịu sức ép lớn từ các nguồn thải
Theo Bộ trưởng Trần Hồng Hà, báo cáo hiện trạng môi trường biển và hải đảo nêu trên là báo cáo đầu tiên về hiện trạng môi trường biển quốc gia, được xây dựng sau khi Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015 có hiệu lực thi hành, nhằm đánh giá tổng quan các vấn đề về hiện trạng và diễn biến môi trường biển và hải đảo quốc gia trong 5 năm qua.
Trên cơ sở phân tích thực trạng, nhận định những thách thức của công tác bảo vệ môi trường biển, báo cáo là cơ sở định hướng và đề xuất các giải pháp nhằm quản lý hiệu quả, phòng ngừa, giảm thiểu ô nhiễm; đây cũng là nguồn tài liệu quan trọng, thiết thực đối với công tác hoạch định, xây dựng và thực hiện chính sách về công tác bảo vệ môi trường biển và hải đảo trong giai đoạn tới.
Theo báo cáo hiện trạng môi trường biển và hải đảo quốc gia, giai đoạn 2016-2020, phần lớn các chất thải từ đất liền tác động gián tiếp đến môi trường nước biển và hải đảo thông qua các cửa sông ven biển, mức độ gia tăng tại các cửa sông chảy qua hoặc gần các thành phố biển.
Kết quả thống kê cho thấy có 74% lượng chất thải rắn của các địa phương có biển được thu gom (năm 2019); lượng nước thải sinh hoạt đô thị phát sinh khoảng 122-163 triệu m3/ngày; có đến 70% các khu, điểm du lịch trong cả nước tập trung ở khu vực ven biển, hệ quả không chỉ gây áp lực lên hạ tầng đô thị mà còn tác động đến không gian của các đô thị ven biển, tác động rõ nhất là sự thay đổi cảnh quan ven biển, điển hình như các dự án lấn biển làm khu nghỉ dưỡng.
Đối với các nguồn thải trên biển, hoạt động nuôi trồng thủy hải sản và hoạt động từ du lịch biển là nơi phát sinh nguồn thải có mức độ tác động lớn nhất và là nguyên nhân trực tiếp gây ô nhiễm môi trường cục bộ tại một số vịnh, đầm phá ven biển.
Bên cạnh đó, một số sự cố môi trường do xả thải chất thải công nghiệp, sự cô tràn dầu trên biển, tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng ngày càng gia tăng cũng đã gây nhiều tổn thất to lớn về người, tài sản, cơ sở hạ tầng, ảnh hưởng phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, tác động xấu đến môi trường biển.
Tàu thuyền cập cảng An Thới, Phú Quốc, Kiên Giang. (Ảnh: Duy Khương/TTXVN)
Đặc biệt, theo báo cáo, việc xảy ra một số sự cố môi trường do xả thải chất thải công nghiệp, điển hình là sự cố môi trường ở miền Trung xảy ra vào đầu năm 2016 và sự cố tràn dầu trên biển thường để lại hậu quả nặng nề như: làm gia tăng ô nhiễm đối với môi trường, tác động trực tiếp đến phát triển kinh tế biển như du lịch, ảnh hưởng trực tiếp đến sinh kế của người dân…
Chưa có lực lượng thanh tra chuyên ngành về môi trường biển
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, biển và hải đảo Việt Nam có vai trò và vị thế đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội, bảo vệ chủ quyền và là một trong những ưu tiên hàng đầu trong toàn hệ thống chính trị, được cụ thể hóa trong Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; trong đó Nghị quyết xác định bảo vệ môi trường biển là một nội dung xuyên suốt.
Tuy nhiên, công tác bảo vệ môi trường biển vẫn còn nhiều khó khăn, trước hết là do nhận thức và trách nhiệm về bảo vệ môi trường biển còn hạn chế. Tư duy phát triển xem trọng các yếu tố kinh tế, tăng trưởng ngắn hạn hơn các yếu tố môi trường; coi trọng lợi ích trước mắt hơn lợi ích và hệ quả lâu dài; cơ cấu tổ chức trong công tác quản lý biển và hải đảo tại các địa phương chưa có sự thống nhất.
Bên cạnh đó, các quy định pháp lý, đặc biệt là các chế tài về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên, môi trường biển và quy định về lấn biển cũng đang ở trong quá trình xây dựng; không có lực lượng thanh tra chuyên ngành về quản lý tổng hợp tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo, từ đó dẫn đến công tác giám sát việc thực thi các quy định bảo vệ môi trường biển còn hạn chế.
Từ thực tế nêu trên, đại diện Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết Việt Nam đã và đang tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tài nguyên, bảo vệ môi trường biển; triển khai Chương trình trọng điểm điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo đến năm 2030; xây dựng hệ thống quan trắc môi trường biển; hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu và cơ chế quản lý, khai thác dữ liệu về điều tra; tuyên truyền, nâng cao nhận thức và đào tạo nguồn nhân lực.
Cùng với đó, Việt Nam cũng tăng cường năng lực và đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong xử lý một số vấn đề môi trường biển nổi cộm như: quản lý rác thải nhựa đại dương; ứng phó, khắc phục, giải quyết hậu quả sự cố tràn dầu trên biển; bảo tồn đa dạng sinh học biển và bảo vệ nguồn lợi thủy sản; ngăn ngừa ô nhiễm từ tàu biển…
Báo cáo hiện trạng môi trường biển và hải đảo quốc gia giai đoạn 2016-2020 được xác định là một trong những nguồn thông tin, dữ liệu hữu ích hỗ trợ tích cực, kịp thời cho công tác quản lý, bảo vệ môi trường biển và hải đảo Việt Nam trong tình hình mới, đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững kinh tế biển theo Nghị Quyết số 36-NQ/TW và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Theo Hùng Võ (Vietnam+)