Truyện ngắn: Vũ Thị Huyền Trang
Duy mới được đặc xá dịp Quốc khánh do cải tạo tốt. Suốt mấy đêm nay Duy không nhắm mắt được vì bộn bề ý nghĩ bủa vây. Vui đã đành, tám năm trong trại giam dài như gần 20 năm Duy đã sống trước đó, Duy thèm được về nhà, tìm việc làm chân chính để phụng dưỡng bố mẹ già. Thế nhưng Duy lại sợ cuộc sống ngoài kia đã thay đổi quá nhiều, rồi biết bao con mắt người đời nhìn mình. Quá khứ của Duy giống như một vết nhơ không thể nào gột sạch, nhưng Duy biết mình phải cố gắng. Duy nằm nhớ nhà mình, nhớ đến từng giếng nước, bờ ao, giậu cúc tần, con chim cu gáy đã sổ lồng, con chó vàng đã chết. Vườn cây chắc đã sum xuê tỏa bóng với những mùa quả ngọt. Nghe nói đường nước sạch mới về làng. Con đường nhỏ ngoằn ngoèo um tùm cây cỏ giờ đã được tráng bê tông. Cách làng không xa đã có đường cao tốc. Cuộc sống đổi thay qua lời mẹ kể khiến Duy càng nôn nao muốn rời khỏi nơi này.
* * *
Bàn tay còn ấm bởi cái bắt tay dặn dò của cán bộ quản giáo: “Ra ngoài rồi ráng làm lại từ đầu, đừng bao giờ quay lại đây nữa nhé”, Duy bước ra khỏi cánh cổng trại giam, hít một hơi thật sâu trước khi ào vào vòng tay của người thân. Duy ôm chặt mẹ bằng đôi tay rắn chắc của mình. Mẹ già đi nhiều quá. Mái tóc đen ngày xưa giờ đã bạc và rụng nhiều. Những bồng bột sai lầm của Duy được mẹ gánh gồng bằng tình yêu thương vô bờ bến. Đứa cháu nhỏ ngày nào còn sà vào lòng cậu nũng nịu giờ đã thành thiếu nữ. Bố không vồn vã hỏi han nhưng Duy biết trong lòng bố nghĩ gì.
Đường về nhà còn bao xa nữa? Chắc là sẽ dài hơn cả ý nghĩ của Duy dù ngày nào trong trại giam anh cũng nghĩ về ngày trở về này. Đường về nhà cũng đã khác nhiều, có vài đoạn Duy không còn nhận ra vì cánh đồng khô hạn ngày xưa giờ nhà nối nhà san sát. Vài khu công nghiệp mọc lên, dọc đường căng đầy thông báo tuyển công nhân. Duy nói với mẹ:
- Ở trong trại con được học làm mộc nên sau này con cũng muốn làm lại từ đầu bằng nghề này.
Nói rồi Duy lấy trong túi ra một bức tượng Phật nhỏ. Anh đặt vào tay mẹ:
- Con biết mẹ có niềm tin vào đạo Phật. Đây là con tự tay làm tặng mẹ.
Mẹ cầm bức tượng trên tay, ngắm từng đường nét như vẫn không tin rằng bức tượng được làm ra từ đôi bàn tay của con trai mình. Duy lấy trong túi ra một chiếc bút gỗ tặng bố. Một cái kẹp tóc gỗ cho cô cháu gái. Mọi thứ đều nhỏ xinh được khắc tỉ mỉ. Xe đã về đến gần nhà, bố vỗ vai Duy: “Về nhà nghỉ ngơi đã con, mọi chuyện không gấp gáp”.
Duy nhìn hai bên đường nhà nào cũng treo cờ phấp phới. Vậy là lễ Quốc khánh năm nay Duy đã được sum vầy với gia đình. Giá mà ông còn sống… Nghĩ đến ông Duy bỗng thấy cay mắt. Không được chăm sóc và ở bên cạnh những giây phút cuối đời của ông là nỗi ân hận lớn nhất trong Duy. Ông là người yêu thương, dạy dỗ Duy từ tấm bé. Mỗi khi ngã có ông nâng, lúc đói lòng đã có ông bón cơm đút cháo. Hai chị gái theo bố mẹ đi làm ăn xa chỉ có Duy ở nhà với ông vui vầy sớm tối. Từng bài học đầu đời cũng là do ông dạy. Trong mái nhà xưa, ngày mưa ông chọn chỗ khô ráo Duy ngồi còn ông chạy khắp nhà hứng mưa bằng mấy cái xoong nhôm. Những ngày nắng chang chang, Duy ngồi chơi dưới gốc cây khế già nhìn bóng ông đổ dài dưới cánh đồng. Tiền bố mẹ gửi về ông đút cột nhà, không dùng đến. Lúa ông cấy, thức ăn là tôm tép dưới đồng. Một nồi tép kho tương, canh rau nấu hến hay mấy ngọn rau dại trên rừng là đủ cho ông cháu vui vầy. Nhiều người thương cảm cảnh ông cháu quạnh quẽ, ông luôn cười bảo: “Tôi đã từng là lính. Vào ra chiến trường ác liệt. Giữa bom rơi đạn nổ còn vươn lên để sống và chiến đấu được thì những khó khăn này đâu có là gì. Ông cháu tôi đùm bọc sống vui vầy để bố mẹ cháu còn lao động”. Ngay cả khi không được khỏe trong người, ông vẫn ra vườn làm việc. Ông sợ nhất tay chân nhàn rỗi. Đã nhiều lần ông bảo với Duy: “Lao động làm cho con người mạnh khỏe và cuộc sống tốt đẹp hơn”.
Duy đỗ đại học, ông bật khóc vì vui. Tiền tiết kiệm nhiều năm ông lấy ra mua sắm những vật dụng cần thiết cho Duy mang theo, từ bộ quần áo mới đến chiếc xe đạp xịn. Số còn lại ông dành dụm để phụ bố mẹ đóng học phí cho Duy. Những ngày đầu xuống phố, Duy nhớ và thương ông không ngủ được. Cứ nghĩ ông ở nhà thui thủi một mình, đêm hôm trái gió trở trời không biết cậy nhờ ai. Nửa đêm gió lớn, không có Duy ở nhà thì ai đắp chăn ấm, pha nước gừng, bôi dầu gió xoa nóng cổ cho ông. Mà không có Duy chắc ông sẽ hay ăn cơm nguội, quên uống thuốc và chẳng chịu nghỉ ngơi. Duy nhịn ăn sáng, mua thẻ điện thoại, đều đều ra trạm điện thoại công cộng gọi về cho ông. Muốn gọi phải xếp hàng rất lâu, vì sinh viên đông mà hình như ai cũng nhớ nhà như Duy vậy. Sóng điện thoại chập chờn nghe câu được câu chăng. Ông hỏi Duy học hành thế nào? Ăn uống có đủ chất không? Chỗ ở có thoải mái hay chật chội? Duy còn chưa kịp hỏi thăm ông điều gì thì thẻ hết tiền. Duy tự nhủ sẽ học hành chăm chỉ, sau này ra trường kiếm tiền lo cho ông một cuộc sống đủ đầy.
Nhưng Duy đã không giữ được lời hứa với chính mình. Cuộc sống phồn hoa đã cuốn Duy vào những trò vui. Duy không biết mình đã trượt chân lúc nào. Những cuộc gọi về nhà cho ông thưa dần. Từng đồng tiền của ông và bố mẹ tích cóp gửi xuống Duy nướng vào mấy trò đỏ đen cùng lũ bạn hư. Đến lúc không còn tiền chơi bời Duy cắm nợ khắp nơi. Bần cùng sinh đạo tặc. Giữa năm học thứ ba Duy bị bắt vì tội tổ chức cướp giật tài sản. Vụ việc được mang ra xử điểm vì các đối tượng đều là sinh viên. Duy lĩnh án mười năm tù trong sự bàng hoàng của gia đình. Qua cửa sắt xe thùng Duy ngoái nhìn thấy ông quỵ gối giữa đám đông. Đó không ngờ lại là lần cuối cùng Duy được gặp ông. Ông đổ bệnh nặng và qua đời sau đó một năm. Lúc biết tin ông mất, Duy đau đớn hiểu rằng có những lỗi lầm khi nhận ra thì phải đối diện với những mất mát không thể bù đắp.
* * *
Duy quỳ lạy trước bàn thờ ông. Trên di ảnh vẫn ánh mắt hiền từ độ lượng nhìn Duy. Như thể những lần Duy trở về nhà sau những ngày đi học đại học. Nếu còn sống hẳn là ông sẽ ôm lấy Duy xem gầy hay béo. Ông sẽ giục Duy đi ra giếng tắm cho mát. Sẽ khoe cây nhãn trong vườn năm nay sai quả. Lần cuối Duy về nhà trước khi bị bắt, ông nói “Mới đóng lại cái dát giường cho con. Giờ yên tâm nằm, không lo sập”. Duy ra vườn ngồi chỗ gốc cây ngày xưa hai ông cháu vẫn mắc võng đung đưa những trưa hè oi ả. Với tay hái một chùm nhãn ngọt, Duy khẽ gọi “Ông ơi”.
Ngoài cổng vang tiếng chó sủa. Các cô dì chú bác biết Duy về nên sang thăm hỏi, động viên. Ngoài sân sau, cả nhà đang làm cỗ, vừa là mừng Duy trở về vừa là để gặp gỡ nhau ngày lễ. Những ngày như thế này Duy càng nhớ ông hơn, nhớ dáng ông cẩn thận đem bộ đồ cựu chiến binh ra sân phơi nắng chuẩn bị đi họp mặt, hay lấy từ cột nhà tiền dành dụm đi thăm bạn chiến đấu nay gặp cảnh ốm đau. Bóng hình ông choáng ngợp tâm trí Duy. Nhất định Duy phải vượt qua mọi mặc cảm, mọi khó khăn để sống tốt, mong ông có thể mỉm cười nơi chín suối.