19/10/2017 - 21:30

Kiến tạo để ĐBSCL phát triển an toàn, bền vững
Bài cuối: Đổi mới tư duy và hành động ngay 

KHÁNH TRUNG - HÀ VĂN

Hiện nay, việc chuyển đổi sản xuất và bố trí lại dân cư tại nhiều địa phương vùng ĐBSCL được đánh giá là vẫn còn chậm do gặp nhiều khó khăn, chưa đáp ứng tốt yêu cầu ổn định và phát triển của vùng trong điều kiện mới. Nhiều địa phương còn tập trung thâm canh sản xuất lúa, chậm thay đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng đa canh, thích ứng BĐKH; thiếu liên kết chặt chẽ giữa các địa phương và các bên liên quan.

Thời gian qua, nông dân tại nhiều địa phương vùng ĐBSCL đã phát triển trồng các loại cây ăn trái giúp mang lại hiệu quả khá cao so với trồng lúa. Trong ảnh:Thu hoạch chôm chôm tại huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre. ảnh: Khánh Trung

Đổi mới tư duy làm nông nghiệp

Cần khẳng định rằng, nông dân tại ĐBSCL rất khó làm giàu từ cây lúa, nhất là khi mỗi hộ dân có diện tích đất canh tác khá ít và phải đối mặt với ngày càng nhiều yếu tố bất lợi từ quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Nhưng, để chuyển đổi, cần phải làm gì? Ông Trần Văn Út, ngụ xã Trường Long, huyện Phong Điền, TP Cần Thơ, cho biết:  Để chuyển đổi sản xuất một cách hiệu quả, nông dân rất cần vai trò định hướng, hỗ trợ của Nhà nước và cần có doanh nghiệp đứng ra liên kết sản xuất, bao tiêu sản phẩm. Do thiếu vốn và sợ chọn sai loại cây trồng khó tiêu thụ sản phẩm, thời gian qua nhiều nông dân thường chọn giải pháp chuyển dần một phần diện tích, phát triển rau màu và cây trồng ngắn ngày để “lấy ngắn nuôi dài” khi muốn lập vườn trồng cây ăn trái. Cách làm này khá hay, nhưng có cái dở là việc chuyển đổi thường chậm và còn manh mún, không đồng bộ giữa các hộ dân, dẫn đến khó quản lý nước tưới tiêu, dịch bệnh và tiêu thụ sản phẩm”.

Ông Nguyễn Văn Thể, Bí thư Tỉnh ủy Sóc Trăng cũng cho rằng: “BĐKH đã ảnh hưởng rồi, nên không thể sản xuất theo mô hình cũ, mà phải thay đổi. Nhưng mô hình nào, đầu ra ở đâu và cần đầu tư gì thì phải tính toán kỹ để hỗ trợ nông dân. Muốn chuyển đổi, cần nguồn lực rất lớn để đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, nhiều hộ dân không có khả năng đầu tư, nhất là các hộ nghèo. Chính phủ và các bộ ngành có những chính sách ưu đãi về vốn, ưu đãi về thông tin, ưu đãi về  cây con giống…để trong điều kiện BĐKH người dân có thể thích nghi và tồn tại một cách bền vững, từ bằng tới tốt hơn hiện nay”.  Theo Giáo sư, tiến sĩ Võ-Tòng Xuân, Hiệu trưởng Trường Đại học Nam Cần Thơ, hơn 40 năm thống nhất đất nước, chính sách an ninh lương thực (ANLT) đã ăn sâu vào cội rễ của từng người nông dân và lãnh đạo, chỉ đạo sản xuất các cấp. Nhà nước hầu như đầu tư tổ chức sản xuất nông nghiệp chỉ cho cây lúa, từ hệ thống thủy lợi dẫn ngọt và ngăn mặn... Đây là điều cần thay đổi. Cần  đầu tư theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực để có thể phát triển sản xuất nhiều loại cây trồng vật nuôi khác có hiệu quả hơn so với làm lúa. 

ĐBSCL mặc dù là vựa lúa lớn nhất cả nước, nhưng nông nghiệp hầu hết vẫn phụ thuộc vào nguồn nước tự nhiên và rất dễ bị tổn thương trước tình trạng BĐKH. Con số hơn 10 địa phương vùng ĐBSCL trong năm 2016 bị ảnh hưởng nặng bởi hạn hán và nước mặn xâm lấn, nửa triệu ha lúa bị mất mùa và với khoảng 2 triệu người dân (khoảng 12% dân số vùng ĐBSCL) thiếu nước sinh hoạt đã minh chứng rằng ĐBSCL không thể phụ thuộc vào hệ thống nước tự nhiên nữa. Cần có giải pháp tổng thể được nghiên cứu đồng bộ, từ việc xây dựng hệ thống dẫn nước, chủ động có các hồ trữ nước và cả việc thay đổi cơ cấu nông nghiệp sao cho phù hợp nhất cho từng tiểu vùng. Tiến sĩ Hoàng Ngọc Phong, Phó Giám đốc Trung tâm tư vấn phát triển kinh tế - Hội Khoa học kinh tế Việt Nam, cũng đặt vấn đề về việc các cơ quan chức năng cần xem xét giảm diện tích đất canh tác lúa ở mức hợp lý, không đặt mục tiêu trồng lúa để xuất khẩu với giá rẻ, vì nông dân không có lãi, rủi ro lại cao và Nhà nước lại phải đầu tư lớn. Thực tế, ở vùng ĐBSCL chỉ cần đảm bảo nước ngọt cho khoảng hơn 1 triệu hécta chuyên canh lúa năng suất cao, chất lượng cao, đủ để người dân sống tốt. Các diện tích đất nhiễm mặn có thể trồng lúa mùa đặc sản và tôm một vụ, sẽ có giá trị cao hơn.

Phối hợp để hướng đến tương lai

Nhìn chung, các cấp chính quyền ở Trung ương và địa phương đã có nhiều nỗ lực trong ứng phó BĐKH và đã triển khai nhiều chương trình, dự án về phát triển và bảo vệ ĐBSCL. Tuy nhiên, những nỗ lực này còn nhỏ lẻ, thiếu đồng bộ, thiếu liên kết và còn mang tính ngắn hạn. Tới đây, để giảm nhẹ các tác động tiêu cực của thiên tai và nhân tai mang tính quy mô toàn vùng, các địa phương vùng ĐBSCL rất cần tăng cường liên kết với nhau và cần vai trò định hướng, hỗ trợ tích cực của Trung ương để có các giải pháp mang tính căn cơ, lâu dài.

Giáo sư Trần Thục, Phó Chủ tịch Hội đồng tư vấn của Ủy ban quốc gia về BĐKH, cho rằng: “Trước các thách thức và các tác động mới, rất cần thiết phải có một định hướng tổng thể cho sự chuyển đổi trong phát triển kinh tế - xã hội và các giải pháp toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của ĐBSCL. Trong đó, việc thực hiện liên kết vùng đóng vai trò rất quan trọng, quyết định sự thành công”... Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, ông Ousmane Dione nhấn mạnh: “ĐBSCL có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của Việt Nam nhưng đang chịu nhiều thiệt hại do thiên tai, hạn mặn và sạt lở. Để ứng phó, cần sự phối hợp liên ngành, đa ngành và có sự thống nhất trong nhận thức, hành động, hợp tác chặt chẽ giữa Trung ương với địa phương, giữa chính quyền với khu vực tư nhân để phản ứng linh hoạt với những biến động, phát triển bền vững ĐBSCL”.

Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, ĐBSCL hiện có trên 2.500 quy hoạch. Việc lập riêng lẻ nhiều quy hoạch dẫn đến thiếu liên kết, thiếu tầm nhìn, gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế -xã hội, gây lãng phí cơ hội, lãng phí nguồn lực của đất nước.  Do vậy, cần phải xây dựng quy hoạch tổng thể, tích hợp để phát triển vùng, đồng thời có cơ chế điều phối vùng, quản lý thống nhất, phù hợp để huy động các nguồn lực phát triển. BĐKH là thách thức lớn, nhưng cũng là cơ hội để tổ chức, sắp xếp lại vùng.

Bàn về giải pháp giúp ĐBSCL phát triển bền vững và thích ứng BĐKH, nhiều chuyên gia trong và ngoài nước đều nhận định, cần phải nương vào tự nhiên để có chiến lược thích ứng phù hợp. Chủ động thực hiện các giải pháp “sống chung” với lũ, với hạn mặn, thiếu nước ngọt; tăng cường công tác dự báo, phòng chống thiên tai và nhân tai để giảm thiểu các thiệt hại… Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia nghiên cứu độc lập  về sinh thái ĐBSCL, cho rằng: “Cần lập bản đồ cảnh báo độ rủi ro sạt lở bờ sông để chủ động di dời người dân, tránh thiệt hại tài sản, tính mạng. Phải quản lý khai thác cát chặt chẽ để đảm bảo duy trì bờ sông, bờ biển. Không nên lấp các hố sâu tự nhiên, vì rất tốn kém và không hiệu quả. Trồng và phục hồi rừng ven biển là rất cần thiết. Các biện pháp công trình như bờ kè, chỉ nên tiến hành ở những nơi cần thiết để bảo vệ tài sản, tính mạng người dân trong ngắn hạn; bởi biện pháp này có thể tạo cảm giác an toàn giả, đến khi kè sụp đổ, thiệt hại sẽ lớn hơn. Bất cứ công trình nào cũng đều có tuổi thọ và chi phí duy tu sẽ tăng theo thời gian…”.

Theo ông Lê Minh Hoan, Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp, ĐBSCL phải đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng chuyển đổi tư duy độc canh và tăng sản lượng lúa gạo sang giảm dần diện tích lúa vụ ba, luân canh các loại cây trồng, thủy sản khác để tận dụng nước lũ. “Phát triển kinh tế hợp tác để củng cố kinh tế hộ, lấy doanh nghiệp dẫn dắt hình thành các chuỗi giá trị ngành hàng nông sản. Triển khai các mô hình nông nghiệp thông minh thích ứng với sự tác động của biến đổi khí hậu và suy giảm số lượng, chất lượng nguồn nước" - ông Lê Minh Hoan nhấn mạnh.

Các chuyên gia cũng khuyến cáo, để hạn chế tình trạng sạt lở bờ biển, bờ sông và sụp lún đất, các địa phương vùng ĐBSCL phải tăng cường phối hợp trong bảo vệ và phát triển rừng, quản lý chặt việc khai thác cát trên sông, biển và khai thác nước ngầm. Cần phải khẩn trương xây dựng và phát triển các nhà máy cung cấp nước sạch tập trung cho vùng để đảm bảo tốt chất lượng cấp nước cho người dân. Đồng thời hỗ trợ, khuyến khích người dân thực hiện các giải pháp sử dụng nước tiết kiệm, thay đổi cơ cấu cây trồng tiêu hao ít nước và thích hợp các vùng đất khác nhau, tránh độc canh cây lúa. Điều tiết, vận hành tối ưu các hồ chứa ở Tây nguyên để góp phần duy trì dòng chảy ổn định vào ĐBSCL. Củng cố, tăng cường mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức quốc tế (Ủy hội sông Mekong Quốc tế, Sáng kiến Hạ lưu vực sông Mekong…) để nghiên cứu thành lập các thể chế liên kết, hợp tác ứng phó và chia sẻ khó khăn, sử dụng có trách nhiệm nguồn nước sông Mekong giữa các quốc gia có liên quan.

Lực lượng chức năng TP Cần Thơ tăng cường kiểm tra tình trạng khai thác cát trên sông Hậu, góp phần hạn chế sạt lở bờ sông. Ảnh: H.V 

Kết luận tại “Hội nghị Diên Hồng” về phát triển bền vững ĐBSCL, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nêu 3 quan điểm phát triển ĐBSCL: Kiến tạo, phát triển bền vững, thịnh vượng trên cơ sở chủ động thích ứng; chuyển hóa được những thách thức, biến thách thức thành cơ hội, bảo đảm được cuộc sống ổn định và khá giả của người dân; bảo tồn được những giá trị truyền thống, văn hóa của ĐBSCL. Thay đổi tư duy phát triển, chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp thuần túy (chủ yếu sản xuất lúa) sang tư duy kinh tế nông nghiệp, từ số lượng chuyển sang chất lượng gắn chuỗi giá trị, từ nông nghiệp hóa học chuyển sang nông nghiệp hữu cơ và công nghệ cao, chú trọng công nghiệp chế biến và công nghiệp hỗ trợ trong phát triển nông nghiệp. Tôn trọng tự nhiên, phát triển thuận tự nhiên, chống can thiệp thô bạo vào tự nhiên và triển bền vững theo phương châm chủ động sống chung với lũ, mặn, với cả khô hạn, thiếu nước…

Về đầu tư các công trình ứng phó BĐKH, Thủ tướng khẳng định từ nay đến 2020 sẽ giải ngân có hiệu quả 1 tỉ USD để làm một số công trình quan trọng như: hệ thống cống sông Cái Lớn - Cái Bé để ngăn mặn, cống Trà Sư - Tha La, xử lý một số đoạn sạt lở nghiêm trọng... 

 

Chia sẻ bài viết