Con chim chìa vôi khoác màu áo loang lổ bay ngược lên bầu trời, kêu khản giọng. Bầy đàn nó không hoang mang trước tiếng kêu ấy. Hình như chúng còn mãn nguyện trước một linh hồn sắp bị nỗi cô đơn bóp nghẹt. Nên nó lầm lũi quay về chiếc tổ của mình, dù tổ đã mục nát vì mưa nắng, bốc lên mùi mốc vì thiếu đi tiếng chim ríu rít mỗi ngày. Nó chỉ là chim chìa vôi không biết hót lời hay, không biết tỉa tót bộ lông ngũ sắc óng mượt. Loài chim ăn những gì có thể giúp sinh tồn. Nhưng nội tôi thích loài chim ấy. Nội bảo: “Chim chìa vôi nhưng không bạc”. Tôi tin.
Vườn nội rất rộng, cây cối um tùm, đấy là thế giới của những loài chim quanh năm về trẩy hội. Nội là bà tiên trong khu vườn ấy. Tôi mãi mãi tin như vậy. Chiều nào nội cũng đi vòng quanh vườn và đếm từng tổ chim, dẫu cho có nhiều tổ bị bỏ lại từ mùa trước. Nội vẫn đếm như một cách để ôn lại những kỷ niệm về mùa cũ. Rồi nội thở dài, nội ra cổng ngóng vời vợi. Tôi biết nội đang ngóng cha mẹ tôi, những đứa con đã đi đến một vùng đất khác. Tôi không hiểu sao nội phải chờ đợi và tha thứ.
Người làng vẫn truyền nhau chuyện thời nội bế tôi đi khắp nơi xin từng hớp sữa. Mẹ tôi bỏ tôi lúc tôi còn quá nhỏ, khóc suốt một ngày vẫn không thấy bầu ngực thân quen. Nội thương, ủ tôi vào lòng khóc ròng, đi xin sữa khắp xóm. Chẳng ai tin tôi còn sống mà lớn đến bây giờ. Nội thì đã già yếu quá…
* * *
Cha tôi, người đàn ông thịt bắp vai u, hùng hục như thân trâu ngoài cánh đồng cả mùa dài. Nội bảo cha hay ôm hôn tôi mỗi lúc làm xong công việc đồng áng. Khi đó chắc tôi không phân biệt được rằng đó là mùi bùn đất đã ngấm vào từng giọt mồ hôi của cha. Khi lớn lên, tôi giận cha tôi nhưng lại yêu mùi bùn đất, đồng ruộng vô cùng. Yêu đến mức chưa bao giờ tôi nghĩ đến việc sẽ bỏ những cánh đồng lên chuyến tàu đi xa. Ði về thế giới mà tôi chưa biết gì về nó. Tôi giận vì cha đã bỏ mảnh đất này ra đi chỉ vì cha khổ. Ðúng hơn là cha sợ khổ. Nhưng tôi cứ tự hỏi liệu ở vùng đất mà cha tôi đặt chân đến có hạnh phúc hơn không? Tôi cũng là một người đàn ông nhưng tôi khác cha.
Mẹ tôi. Người đàn bà yêu chồng hết mực, sẵn sàng bỏ lại con mình để cùng chồng bôn ba tìm một vùng đất mới. Mẹ tôi đẹp. Cha tôi cũng chính vì không muốn mẹ lam lũ sớm chiều trên cánh đồng hầm hập nắng để rồi tàn phai nhan sắc nên đưa mẹ đi xa. Chỉ có tôi là khổ. Tôi bị bỏ lại trên mảnh đất mà mình sinh ra, nơi nội tôi đã chôn nắm nhau thai dưới gốc đa đầu làng để dặn tôi rằng: “Ranh giới của cuộc đời ở đấy. Có đi xa rồi thì hồn vía cũng quay trở lại”. Tôi biết rằng nội không chỉ chôn nhau thai của tôi mà chắc chắn nội cũng đã từng chôn nắm nhau thai của cha tôi ở đó.
* * *
Em đến. Em rủ tôi:
- Ta đi anh nhé. Ði một nơi thật xa.
- Ði đâu? - Tôi mỉm cười cay đắng. Tôi nghĩ thà tôi mất em còn hơn, dẫu tôi yêu em lắm. Tôi không bỏ được mảnh đất này. Tôi còn nặng nợ.
Tôi vẫn nghĩ là em sẽ không ra đi đâu. Em sẽ không bỏ tôi đâu. Lẽ nào em lại như cha mẹ tôi, em cũng hắt hủi tôi như thế. Nhưng em đi thật. Em ra đi vào một ngày ăm ắp nắng. Nội bảo ngày xưa cha mẹ tôi cũng ra đi vào một ngày như thế. Buổi tối trước ngày em ra đi, hẹn gặp tôi ở gốc đa đầu làng, em nói những chuyện rất vui. Em nghĩ những cái tên thật đẹp để đặt cho các con sau này. Em nói sẽ trồng một vườn hoa nở đúng vào dịp Tết. Rồi cả chuyện em thích cái mẫu váy cưới trên chợ huyện, nó mới đẹp làm sao, lấp lánh làm sao. Tôi vui quá. Tôi yêu em thật lòng. Tôi nghĩ là em cũng yêu tôi nhiều như thế.
Tối hôm sau trăng vẫn tròn vành vạnh, tôi đứng một mình ở đầu làng, trăng soi tôi một bóng. Tôi cứ đợi mãi, đợi mãi. Ðợi đến khi trăng tàn, bóng cũng tàn vẫn không thấy em đâu. Thanh niên trong làng đi chơi đêm về cười vang. Chúng hát: “Lời ru buồn nghe mênh mang mênh mang sau lũy tre làng khiến lòng tôi xôn xao... Ru em thời thiếu nữ xa xôi còn đâu bao đêm trăng thanh tát gàu sòng, vui bên anh…”.
Tôi muốn đập nát vụn trăng, tôi muốn xé tan tành lời hát cay đắng ấy. Em bỏ tôi để ra đi thật. Tôi cay đắng nghĩ, cũng phải thôi, ở mảnh đất này tôi không mang lại hạnh phúc gì cho em. Rồi tôi lại oán trách em vì sao từ chối chính nơi đã sinh ra và nuôi em khôn lớn. Nhưng đêm ấy và nhiều đêm sau nữa tôi vẫn đứng đợi em nơi gốc đa đầu làng. Ðợi tới khi bật khóc.
Nội thấy tôi mắt đỏ hoe nên cũng buồn, cũng khóc. Nước mắt nội lạnh như sương, mặn như muối. Tôi ngồi ngẩn ngơ giữa sân tràn đầy trăng. Trăng vỡ tràn đầy ngực. Tôi không nghĩ là mình yêu em nhiều đến thế, cũng không nghĩ là mình giận cha mẹ nhiều đến thế. Tôi thấy tôi đau khổ.
* * *
Nếu tôi đi tìm em?
Nếu tôi đi tìm em thì chính tôi đã phản lại lời thề của mình. Tôi thề tôi sẽ không rời bỏ mảnh đất này. Sẽ không chung sống với ai luôn muốn rời bỏ mảnh đất này. Lẽ nào tôi lại tìm em?
Ðêm nào tôi cũng mơ thấy em trên cung trăng, em xinh đẹp, hiền dịu như chị Hằng. Em hát vu vơ… Em giận tôi sao không giữ em? Em giận tôi sao không đi tìm em? Em khóc. Tôi khóc.
Tỉnh giấc. Tôi vẫn tự hỏi mình: “Sao tôi không đi tìm em?”. Tôi không dám từ bỏ. Từ bỏ em hoặc từ bỏ mảnh đất này.
Nội bảo:
- Lấy vợ đi con ạ.
Tôi thấy sống mũi cay cay, ngậm ngùi bảo nội:
- Có ai ưng đâu mà lấy hả nội?
- Ðể nội tìm cho con nhé.
Tôi định bảo “Tình yêu đâu phải dễ dàng” nhưng nghĩ thế nào lại thôi. Nội tôi dù sao cũng gần đất xa trời. Nói làm gì chuyện thế thái nhân tình cho nội thêm khổ cực. Nghĩ vậy nên tôi liều bảo:
- Thì nội ưng ai cũng được.
* * *
Ba tháng sau tôi lấy vợ. Vợ tôi là một người con gái thôn quê quanh năm không ra khỏi gốc đa đầu làng. Tuy tôi không yêu vợ nhưng thương. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ để có một gia đình bình yên.
Tôi đã xây dựng gia đình trên chính mảnh đất quê hương mình. Tôi tự nghiệm ra đấy là điều hạnh phúc. Tôi đã bắt lý trí mình phải từ bỏ em. Ðừng yêu em nữa. Nội tôi ngày càng yếu đi nhưng vẫn cố gắng đi vòng quanh vườn trong buổi sáng. Sáng một vòng, chiều một vòng. Ðến khi cả ngày nội mới chỉ đi hết có một vòng là tôi biết nội muốn xa tôi lắm. Vợ tôi thì thầm:
- Nội dạo này hay nhìn lên bàn thờ và lẩm bẩm điều gì ấy, em không nghe rõ. Người ta bảo như thế là…
Tôi quát:
- Chỉ ăn nói linh tinh.
Vợ tôi cụp mắt sợ sệt đến tội nghiệp. Thái độ của tôi, những câu nói vô tình... có phải là sự thể hiện của thứ tình cảm không có tình yêu hay không? Tôi cũng không rõ nữa, chỉ biết sau đó vợ tôi càng ít nói và lảng tránh tôi hơn.
Tôi thề là tôi không nhớ em.
Rồi một buổi sáng, tôi vừa mở mắt ra đã thấy chim trong vườn kêu thảng thốt, chúng đập cánh loạn xạ. Tôi rùng mình, biết có chuyện chẳng lành xảy ra, tôi lập cập mở cửa buồng đã thấy vợ tôi đang lay nội. Nội ra đi miệng đỏ hương trầu như đang nhìn tôi cười từ biệt. Tôi ôm nội, lay rất lâu nhưng nội đã không dậy nữa.
Trong buổi sáng hôm ấy từng đàn chim trong khu vườn rộng lớn và rậm rịt đã bay đi. Chúng sải cánh bay ra cánh đồng thênh thang không một con nào quay đầu lại. Tôi hay ra ngoài ngõ ngóng về phía đầu làng, dù tôi sợ tôi giống nội. Sợ phải chờ đợi và hy vọng. Nhưng tôi vẫn ra ngõ ngóng về phía đầu làng, phải chăng là tôi đang chờ những đàn chim quay lại…