18/07/2019 - 13:02

Giảm điện than, tăng điện sạch 

Qua phân tích, so sánh tác động của ba kịch bản phát triển nguồn điện đến năm 2030 của Việt Nam về việc làm, môi trường, các khía cạnh xã hội, an ninh năng lượng, chi phí đầu tư và chi phí sản xuất điện, thì kịch bản chuyển dịch sang năng lượng sạch mang lại nhiều cơ hội cho Việt Nam cả về kinh tế, xã hội và môi trường.

Giảm điện than, tăng điện sạch mang lại nhiều cơ hội cho Việt Nam. Trong ảnh: dự án điện gió tại Bạc Liêu.

Nội dung nêu trên được thể hiện trong kết quả nghiên cứu “Phân tích các yếu tố đảm bảo công bằng trong chuyển dịch năng lượng ở Việt Nam” do Viện Friedrich- Ebert- Stiftung (FES) và Trung tâm Phát triển sáng tạo xanh (GreenID) thực hiện và được công bố tại hội thảo “Chuyển dịch năng lượng công bằng: cơ hội và thách thức cho Việt Nam” diễn ra ở Tiền Giang mới đây.

Ba kịch bản phân tích

Bà Ngụy Thị Khanh, Giám đốc GreenID-đại diện nhóm nghiên cứu cho biết, 3 kịch bản được phân tích trong nghiên cứu gồm: Kịch bản cơ sở (Quy hoạch điện VII điều chỉnh), thì theo kịch bản này, tổng công suất lắp đặt được dự báo tăng lên 60.000MW vào năm 2020, 96.500MW vào năm 2025 và 129.500MW vào năm 2030. Trong đó, với kịch bản này, đến năm 2030,  nhiệt điện than đạt 55.300MW; điện khí tự nhiên là 19.000MW; điện gió 6.000MW; điện mặt trời là 12.000MW và sinh khối là 2.720MW.

Còn kịch bản năng lượng tái tạo (B&RE) có tổng công suất dự kiến sẽ tăng từ 38.900MW vào năm 2015 lên 123.480MW vào năm 2030, tức tăng 84.580MW trong 15 năm, tương đương 5.640MW mỗi năm. Công suất phát điện của kịch bản này thấp hơn kịch bản cơ sở 6.000MW. Trong đó, với kịch bản này, đến năm 2030, điện than chiếm 42.210MW; điện khí tự nhiên chiếm 24.400MW; gió là 8.500MW; mặt trời là 17.750MW và sinh khối 1.950MW.

Trong khi đó, với kịch bản kết hợp năng lượng tái tạo và sử dụng năng lượng tiết kiệm hiệu quả (EE&RE), thì so với kịch bản cơ sở, kịch bản này đến năm 2030 tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo từ 21% lên 30% so với 2015, tăng tỷ trọng nhiệt điện khí từ 14,7% lên khoảng 22,8% và giảm nhiệt điện than từ khoảng 42,6% xuống còn 24,4%. Trong đó, đến năm 2030, nhiệt điện than chiếm 25.640MW; điện khí tự nhiên là 23.980MW; gió là 8.140MW; điện mặt trời là 16.750MW và sinh khối 1.950MW.

Nhiều cơ hội khi chuyển sang năng lượng sạch

Kết quả nghiên cứu các kịch bản nêu trên cho thấy, khi chuyển dịch năng lượng từ phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch (than) sang mở rộng ứng dụng hiệu quả năng lượng và năng lượng tái tạo “hứa hẹn” mang lại nhiều cơ hội lớn cho Việt Nam về cả kinh tế, xã hội và môi trường. Theo đó, đối với an ninh năng lượng sẽ được đảm bảo tốt hơn, mà cụ thể hai kịch bản B&RE và EE&RE có tính ưu việt hơn so với kịch bản cơ sở trong việc đảm bảo an ninh năng lượng xét ở các tiêu chí mức độ đa dạng của nguồn năng lượng. Cả 2 kịch bản B&RE và EE&RE, mà đặc biệt là kịch bản EE&RE có mức độ đa dạng hóa nguồn năng lượng tốt hơn do cơ cấu giữa các nguồn cân bằng hơn so với kịch bản cơ sở.

Đối với việc giảm tác động môi trường và sức khỏe cộng đồng, thì kịch bản dịch chuyển năng lượng có đóng góp quan trọng vào cải thiện môi trường không khí và nguồn nước, cho nên có đóng góp rất lớn đối với giảm thiểu rủi ro sức khỏe của cộng đồng.

Theo đó, tổng phát thải các loại bụi (TSP, PM10 và PM2.5) vào năm 2030 của kịch bản EE&RE ước tính giảm đến 48% so với kịch bản cơ sở và giảm 17% đối với kịch bản B&RE so với kịch bản cơ sở. Trong khi đó, phát thải TSP, PM10, PM2.5 của kịch bản EE&RE vào năm 2030 tăng 8% so với năm 2020, còn kịch bản cơ sở phát thải các chất này vào năm 2030 tăng 115% so với 2020.

Về nhu cầu sử dụng nước, phân tích cũng chỉ ra, trong tất cả các kịch bản, nhu cầu sử dụng nước chủ yếu cho việc làm mát, đặc biệt với nhiệt điện đốt than chiếm khoảng 63% trong tổng nhu cầu nước. Năm 2030, tổng nhu cầu nước của kịch bản cơ sở là 103,3 tỉ m3/năm, trong khi kịch bản B&RE là 87,7 tỉ m3/năm và kịch bản EE&RE là 61,2 tỉ m3/năm.

Ngoài ra, kết quả phân tích cũng chỉ ra, việc chuyển dịch sang năng lượng sạch cũng giúp tạo động lực phát triển mới và giúp thu hẹp khoảng cách cho các địa phương có tiềm năng ở vùng sâu xa; tăng cơ hội tiếp cận điện và cải thiện điều kiện sống cho nhóm hộ chưa có điện ở các vùng sâu xa, hẻo lánh.

Nhu cầu vốn đầu tư theo kịch bản chuyển dịch sang năng lượng sạch ít tốn kém hơn so với kịch bản cơ sở, mà cụ thể, mức chênh lệch tổng nhu cầu đầu tư giữa kịch bản cơ sở với kịch bản B&RE và EE&RE lần lượt là 5,294 tỉ USD và 3,625 tỉ USD.

Chi phí sản xuất điện của hai kịch bản dịch chuyển sang năng lượng sạch thấp hơn so với kịch bản cơ sở; tạo việc làm mới; cải thiện chất lượng việc làm và chuyển dịch năng lượng không dẫn đến mất việc làm cho người lao động của ngành than hay của các nhà máy điện than…, cũng là những kết quả được chỉ ra.

Tuy nhiên, theo bà Ngụy Thị Khanh, chuyển dịch sang năng lượng sạch cũng đối mặt với bốn thách thức, gồm nhu cầu sử dụng đất lớn có thể dẫn tới xung đột đất đai, nếu không có giải pháp căn cơ; đảm bảo sinh kế, việc làm cho người dân của các cộng đồng địa phương bị ảnh hưởng bởi các dự án điện là một thách thức lớn; việc đào tạo nghề và chuẩn bị nguồn nhân lực cho quá trình chuyển dịch, nhất là ở các địa phương còn chậm và cuối cùng là việc đảm bảo chế độ phúc lợi và quyền cơ bản ở nơi làm việc cho người lao động trong các doanh nghiệp năng lượng ngoài nhà nước cần có nhiều cải thiện.

Chuyển dịch năng lượng là quá trình chuyển đổi từ phụ thuộc nhiều vào nhiên liệu hóa thạch sang phát triển và ứng dụng năng lượng tái tạo và sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả. Điều đầu tiên cần khẳng định, chuyển dịch năng lượng là cấp thiết ở Việt Nam nhằm giảm thiểu sự phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch và nhập khẩu nhiên liệu bên ngoài, đảm bảo một tương lai năng lượng tự chủ, độc lập, giữ gìn môi trường không khí, nguồn nước sạch, bảo vệ sức khỏe cộng đồng.
Quá trình chuyển dịch này vừa giúp đảm bảo an ninh năng lượng, giảm phát thải mà vẫn đảm bảo phát triển kinh tế, tăng cường tiếp cận năng lượng với mức chi phí hợp lý, tạo ra công ăn việc làm mới và có chất lượng cho các cộng đồng bị tác động bởi quá trình chuyển dịch. Chuyển dịch lao động, gắn với sự tham gia đa dạng của nhiều thành phần trong xã hội vào thị trường năng lượng, đòi hỏi sự điều tiết để đảm bảo lợi ích hài hòa của các bên liên quan.

Bài, ảnh: T.C

Chia sẻ bài viết