26/10/2025 - 00:20

Di tích quốc gia Lăng mộ và đền thờ Nguyễn Huỳnh Đức 

Lăng mộ và đền thờ Nguyễn Huỳnh Đức (tọa lạc tại phường Khánh Hậu, TP Tân An, tỉnh Long An cũ; nay là phường Khánh Hậu, tỉnh Tây Ninh) được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là Di tích nghệ thuật cấp quốc gia, vào năm 1993. Di tích lưu dấu nghệ thuật kiến trúc lăng mộ đầu nhà Nguyễn cùng nhiều hiện vật cổ liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp một trong những người có công khai phá giồng Cái Én.

Bên trong Lăng mộ và đền thờ Nguyễn Huỳnh Đức.

Đôi nét về cuộc đời Nguyễn Huỳnh Đức

Nguyễn Huỳnh Đức sinh ngày 14 tháng Giêng năm Mậu Thìn (1748) tại làng Trường Khánh, huyện Kiến Hưng, trấn Định Tường, nay thuộc phường Khánh Hậu, tỉnh Tây Ninh. Ông vốn họ Huỳnh, tên thật là Huỳnh Công Đức, có tài liệu chép là Huỳnh Tường Đức, thuộc gia đình quan lại nhiều đời. Nội tổ và phụ thân của ông là ông Huỳnh Công Châu và ông Huỳnh Công Lương đều là võ tướng của chúa Nguyễn, làm quan đến chức Cai đội thủy quân. Năm 1731, thân phụ ông vào Nam rồi ở lại lập nghiệp ở giồng Cái Én và sinh ra ông tại đây.

Thời trai trẻ của ông chủ yếu khai hoang mở đất giồng Cái Én thuộc vùng Ba Giồng (Gò Yến, Gò Kỳ Lân, Gò Qua Qua) - hệ thống giồng chạy dài từ TP Tân An, tỉnh Long An đến huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang cũ. Đến năm Canh Tý (1780), chúa Nguyễn Phúc Ánh bôn tẩu vào Nam, đến thành Gia Định và Nguyễn Huỳnh Đức có mặt trong đội quân từ Ba Giồng về Gia Định phò tá chúa Nguyễn Phúc Ánh. Lúc ấy, ông đã 33 tuổi.

Sau khi chúa Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long, ông Nguyễn Huỳnh Đức được giao nhiều trọng trách lớn, trong đó phải kể đến ba lần làm đến chức Tổng trấn ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam. Năm Nhâm Tuất (1802), ông giữ chức Tổng trấn thành Bình Định. Năm Canh Ngọ (1810), ông ra Bắc nhậm chức Tổng trấn Bắc Thành. Năm Ất Hợi (1815) ông lại được vua Gia Long bổ làm Tổng trấn thành Gia Định. Năm 1817, thấy mình tuổi cao sức yếu, ông Nguyễn Huỳnh Đức dâng sớ xin vua cho về dưỡng lão tại cố hương. Tại đây, ông cho xây sẵn sinh phần và tu sửa lại căn nhà cũ của tổ tiên để làm từ đường. Ông mất ngày mùng chín tháng chín năm Gia Long thứ 18 (1819), hưởng thọ 72 tuổi(1).

Hàng năm vào 3 ngày mùng 7, 8, 9 tháng 9 âm lịch, nhân dân trong vùng tề tựu cùng gia tộc làm lễ cúng ông hết sức trọng thể. Truyền thống này đã được kế tục từ năm 1819 cho đến nay.

Lăng mộ và đền thờ 

Khuôn viên lăng Nguyễn Huỳnh Đức có diện tích khoảng 3.000m2, được giới hạn bởi tường rào, có cổng tam quan mở về hướng Đông, trên cổng đắp nổi dòng chữ Tiền quân phủ. Lăng Nguyễn Huỳnh Đức được xây dựng năm 1817 (trước khi ông mất) bằng đá ong và vữa tam hợp, theo hướng Bắc - Nam. Lăng được xây dựng theo lối cổ, đăng đối nghiêm ngặt, có vòng thành hình chữ nhật dài 35m, rộng 19m, cao1,2m, dày 0,4m bao quanh.

Án ngữ lối vào mộ ở phía Bắc là bình phong đá ong cao 3m có đắp nổi hoa văn mai lộc. Từ bình phong có đường thần đạo dài 17m dẫn đến phần chính của mộ gồm bửu thành, các trụ biểu, hai bình phong và bia mộ. Trên hai bình phong có khắc bài Thọ phần minh do Hiệp tổng trấn Gia Định thành Trịnh Hoài Đức soạn. Toàn bộ ngôi mộ được trang trí hoa văn rồng, hoa lá, mặt trời, mây, hoa sen và nhiều câu đối chữ Hán. Nổi bật trong ngôi mộ là bia đá cao 1,56m, rộng 0,95m được mang vào từ Huế. Mặt bia có dòng chữ Hán: Việt Cố Khâm Sai Gia Định thành Tổng trấn, Chưởng Tiền quân, tặng Thôi Trung Dực Vận công thần, Phụ Quốc thượng tướng quân, Thượng trụ quốc, Thái phó Nguyễn Huỳnh Quận công chi mộ. Phía sau bia là nơi chôn cất thi hài ông Nguyễn Huỳnh Đức với nấm mộ hình chữ nhật, dài 3,4m, rộng 2,7m, cao 0,3m. Xung quanh mộ là những cây sứ cổ thụ. Nói chung, lăng mộ Nguyễn Huỳnh Đức được xây dựng theo lối kiến trúc đầu đời Nguyễn: giản dị mà hùng tráng.

Cách mộ 20m về phía Nam là đền thờ ông. Từ năm 1819 đến năm 1959, gia tộc Nguyễn Huỳnh thờ ông trong ngôi nhà xưa do vua Gia Long sai người dựng cách ngôi mộ khoảng 500m. Vào năm 1959, để tiện cho việc thờ cúng, gia tộc đã xây dựng ngôi đền thờ mới này theo kiểu tứ trụ, 2 tầng mái, cửa gỗ trông ra hướng Đông. Ngay sau cửa chính đền thờ có đặt hương án sơn son thếp vàng, chạm rồng, phụng, hoa lá, phía trên có bức họa truyền thần ông Nguyễn Huỳnh Đức được vẽ năm 1802. Phía sau hương án có bộ ván độc mộc dài 3,4m, rộng 1,8m, dày 0,14m, có niên đại hơn 300 năm vốn là di vật của ông lúc sinh tiền. Trong cùng là bàn thờ chính với khánh thờ đặt trên hương án và chiếc hộp sơn son đựng 8 bản chiếu, chỉ, chế, sắc của các triều Gia Long, Minh Mạng, Tự Đức phong tặng ông.

Bên trong đền thờ còn có 3 bộ lỗ bộ, tàn lọng và 4 cặp liễn đối có nội dung ca ngợi sự nghiệp của ông do vua Gia Long ngự ban. Ngoài ra, những hiện vật cổ có niên đại thế kỷ XVIII và XIX còn được lưu giữ trong đền thờ như: khánh lệnh đồng của vua Gia Long ban năm Kỷ Mão (1819), bức hoành Vạn Lý Danh của vua Tự Đức ban năm Giáp Dần (1854)... Phía sau đền thờ là ngôi chánh điện lợp ngói lưu ly xanh được gia tộc xây dựng năm 2000 theo bản vẽ của kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng nguyên Viện trưởng Viện Khảo cổ Sài Gòn.

Trước đây, vào năm 1972, gia tộc đã xây dựng 2 cổng lớn ở hai đầu con đường vòng cung dẫn vào lăng với thiết kế giống nhau theo kiểu cổng tam quan truyền thống. Trên cổng có hàng chữ Tiền quân phủ và Lăng Nguyễn Huỳnh Đức bằng đồng. Nhìn từ xa, cổng lăng toát lên vẻ đường bệ, uy nghi(2).

Với những đóng góp của ông trong việc khai phá giồng Cái Én và những giá trị lịch sử, kiến trúc nghệ thuật, Lăng mộ và đền thờ Nguyễn Huỳnh Đức đã được Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) ra Quyết định số 534-QĐ/BT ngày 11-5-1993 công nhận là Di tích nghệ thuật cấp quốc gia.

Trần Kiều Quang

(1) Nguyễn Ngọc Quang (2017), “Nguyễn Huỳnh Đức (1748-1819)”, trong cuốn "Một số nhân vật lịch sử đất phương Nam", NXB Hồng Đức, tr.139-141.

(2) Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Long An (2021), “Di tích quốc gia trên địa bàn tỉnh Long An”, NXB Thanh Niên, tr.192-195.

Chia sẻ bài viết