Học sinh của cô là những trẻ chậm phát triển trí tuệ, nhiều em tính khí khó, nổi nóng bất thường, cầm ném bất cứ cái gì trong tay em có được. Để dạy được các em cái chữ, cô luôn dùng lời dịu ngọt, ngăn các em bật lên tính bất thường vì khi các em nổi giận là cô giáo phải chào thua...
Năm 2001, Trường Nuôi dạy trẻ em khuyết tật tỉnh Bến Tre mở lớp 1 cho trẻ em chậm phát triển trí tuệ (thiểu năng trí tuệ). Đây là những em chậm phát triển ở dạng: bệnh daw, múa vờ (không điều khiển được tay chân), động kinh khi đang học, tứ chi yếu phải đi chầm chậm. Có em bề ngoài trông rất bình thường, nhưng 8-9 tuổi mà trí não chậm phát triển như trẻ 2-3 tuổi. Có em nhiều năm ảnh hưởng gia đình, cáu gắt chửi thề, chửi cả thầy cô giáo, nhưng không hiểu mình nói gì...
Năm đó, cô giáo Phạm Thị Tuyết Nhơn, một giáo viên của trường trung học sư phạm mầm non chuyển về trường, được Ban giám hiệu tin tưởng giao nhiệm vụ dạy lớp 1 trẻ em chậm phát triển.
 |
Cô giáo Nhơn dạy trẻ đọc chữ. |
Những ngày đầu đứng lớp, tinh thần cô Nhơn luôn căng thẳng vì học trò của mình khác thường. Có em ngồi quay lưng lên bảng. Có em vào lớp, suốt buổi ngồi mân mê góc áo, không nghe lời cô giảng. Có em vào lớp không nhớ chỗ ngồi của mình mà ngồi vào ghế giáo viên. Có em, khi đi vệ sinh, không tự điều khiển được. Có em đang học, bảo mệt quá nằm nghỉ... Những ngày đầu không hiểu được các em, cô la rầy, bị các em hờn giận “nghỉ chơi cô ra luôn”.
Sau nhiều ngày đứng lớp, cô phát hiện trẻ chậm phát triển trí tuệ thích dịu ngọt như trẻ nhỏ. Cô gần gũi, tạo tình cảm với học trò của mình. Cô động viên các em gắng học, rồi cô tạo những việc, bài vở đơn giản để các em có thể làm được. Sau đó, cô hết lời khen. Lời khen của cô làm cho các em thấy mình được đối xử như những học sinh bình thường.
Khi học sinh sai, cô phê bình, nhưng phải khéo vì thẳng thắn thì học trò giận, gục mặt xuống bàn. Cô lấy gương học sinh giỏi nêu lên: “Em nầy học giỏi, được dấu cộng. Cuối tuần có nhiều dấu cộng, được khen”. Từ đó học sinh yếu, phấn đấu học giỏi cho được nhiều dấu cộng. Lớp cô dạy, những tháng đầu năm học, nhiều học sinh hay đi trễ. Cô ra phần thưởng: “Bạn nào đến lớp đúng giờ, được dấu cộng”. Từ đó, các em về thúc phụ huynh đưa đi học đúng giờ. Có nhiều em đến lớp trước cô giáo của mình.
Đối với những em đang học, nằm xuống bàn, bảo: “Con mệt quá...” khi đó cô đành phải chiều. Đến một lát sau cô mới hỏi: “Con hết mệt chưa?”. Hoặc dùng lời nói khích em: “Phúc (tên học sinh hay nằm nghỉ) phát biểu hay, phải chi nãy giờ con không nằm nghỉ, phát biểu được điểm cao rồi”. Khi ấy, cậu học trò hay nằm nghỉ, lập tức ngồi bật dậy, chăm chú nghe cô giảng bài. Cô tạo điều kiện cho học trò phát biểu. Sau đó thì động viên khen ngợi.
Năm học vừa qua, lớp của cô Nhơn có em Võ Ngọc Hiếu 13 tuổi, tay chân múa vờ, tay cầm không được, đi khó, nói khó. Mỗi khi đi tiểu, phải có người tiếp giúp. Đầu năm học, phụ huynh đưa em đến lớp và phải ở lại tiếp vệ sinh cho em. Mỗi lần thấy em Hiếu tiểu, các bạn trong lớp che mắt lại. Cô lấy bài học đạo đức ra dạy cho các học trò của mình hiểu. Cô nói: “Các con học chung trong một lớp, như anh em trong một nhà. Các con cười, làm cho bạn mình thêm mặc cảm”. Từ đó , mỗi lần Hiếu đi vệ sinh, các bạn trong lớp không còn cười nữa, mà nay đã có bạn Phạm Tấn Quốc, thường giúp bạn Hiếu.
Đối với những học sinh tính khí khó, hay nổi cáu, ném sách, ném cặp... khi dạy cô luôn dỗ ngọt, ngăn các em bực lên. Vì khi các em nổi giận, cô giáo phải chào thua...
Lớp 1 trẻ chậm phát triển mỗi năm chỉ có từ 6-9 em, nhưng mỗi em một tính cách khác nhau. Nhiều phụ huynh muốn được cho con mình vào học ở trường, chỉ giới thiệu những mặt tốt của con em mình. Khi vào học, cô giáo phát hiện thêm nhiều nhược điểm của trò, nhưng với cô Nhơn, không hề phiền chê cháu mà lựa lời để nhờ phụ huynh giúp con em mình khắc phục nhược điểm.
Chương trình dạy lớp 1 cho trẻ chậm phát triển, cũng là chương trình lớp 1 phổ thông. Để đưa được cái chữ, con số đến với các em, cô Nhơn không chỉ làm tròn giáo án như những lớp 1 của học sinh phổ thông bình thường mà trong giáo án của cô luôn có biện pháp xử lý tình huống khó khăn bằng những lời dịu ngọt dỗ dành, dạy bảo học sinh.
Sự tận tụy với nghề đã mang đến cho cô Nhơn nhiều niềm vui. Lớp học của cô thường chỉ 1-2 em quá cá biệt phải ở lại. Nhiều học sinh của cô đã lên lớp và trở thành học sinh giỏi, như: em Nguyễn Thành Đạt, sinh năm 1993, đang học lớp 4 của trẻ chậm phát triển, nhiều năm liền là học sinh giỏi. Em Huỳnh Hữu Châu, 16 tuổi, đang học lớp 5, năm học vừa qua đạt giải ba cuộc thi vẽ tranh thiếu nhi do Nhà Văn hóa thiếu nhi tỉnh tổ chức, và có nhiều năm là học sinh giỏi. Em Châu ước mơ: Sau nầy làm kỹ sư cầu đường hoặc kiến trúc sư. Châu đang nuôi ước mơ bằng việc cố gắng học tập.
Sự tận tâm với nghề, hết lòng với trẻ em chậm phát triển trí tuệ của cô Nhơn đã mang lại nhiều niềm vui cho phụ huynh. Bà Lê Thị Bích Thủy, mẹ của em Lê Hoàng Phi, 9 tuổi, học sinh lớp 1 của cô giáo Nhơn cho biết: “Vào học lớp của cô Nhơn, cháu tiến bộ nhiều hơn ở nhà. Cháu đã biết đọc, viết được chữ, phân biệt được điều hay, lẽ phải”.
Sự tiến bộ của trẻ chậm phát triển trí tuệ sau khi học với cô Nhơn, cũng được các bạn đồng nghiệp đánh giá cao. Cô Lê Bình Lâm Trúc, giáo viên dạy lớp ba chậm phát triển, nhận xét: “Qua lớp 1 của cô Nhơn, các em hiểu được kiến thức cơ bản, sinh hoạt nội qui, nề nếp trong lớp như học sinh phổ thông bình thường”.
Tuy vậy, cô Phạm Thị Tuyết Nhơn lại rất khiêm tốn: “Ở các lớp trẻ chậm phát triển trí tuệ, giáo viên nào cũng có phương pháp dạy như em. Em còn phải học ở đồng nghiệp nhiều hơn nữa”. Đáng trân trọng tấm lòng yêu nghề, yêu trò của cô giáo Nhơn. Chính cô đã tiếp thêm niềm tin, nghị lực và vun đắp ước mơ cho những đứa trẻ kém may mắn, có được kiến thức nhất định để vào đời.
Bài, ảnh: HỒNG MINH