Thầy Tùng ngồi trong sân, dán con mắt theo mỗi chuyến đò qua lại. Thầy đếm từng lượt khách lên xuống rồi tay ghi ngoằn nghèo trên mặt đất, hết ngày thầy cộng lại thành những con số nhiều vô kể.
Dòng sông là niềm hạnh phúc lớn đối với thầy Tùng không thể thiếu được, ngày nào mà thầy không thấy dòng sông và con đò là thầy ăn cơm không ngon. Bên cạnh thầy còn có số cây kiểng cảnh trong vuông sân làm bầu bạn sớm chiều.
Thầy không ngờ hình bóng cô độc sớm đến với thầy đến thế! Chỉ mới có nghỉ hưu vài năm chưa được hưởng sự thong thả bao lâu thì cơn tai biến ập đến làm thầy què quặt một chân. Lâm vào cảnh này thầy mới thấy được thực sự của cô đơn trong cuộc sống. Thầy nhớ, trước đây mình đã có một tổ ấm rất hạnh phúc, như bao người khác. Thầy Tùng lấy vợ muộn, gần bốn mươi tuổi mới lập gia đình, vợ trẻ hơn mười lăm tuổi cũng là đồng nghiệp. Cuộc sống rất hạnh phúc. Hai người siêng năng chăm chỉ với nghề nghiệp, tiền lương vợ chồng cộng lại cũng đủ sống, đứa con trai ra đời khôi ngô nửa giống cha nửa giống mẹ. Nhiều bạn đồng nghiệp thấy vậy xúi: "Thầy cô sinh con đẹp và ngoan quá, vậy cho ra đời thêm đứa nữa đi cho đúng quy định". Vợ thầy Tùng nài nỉ đòi thêm, thầy từ chối: "Có thằng con trai nối dòng được rồi! Cái quan trọng là đầu tư cho nó học hành tới nơi tới chốn kia! Nhiều con mà không lo tới nơi cũng vậy thôi!". Bây giờ một hôm một tai nạn ập đến đã cướp một người vợ thân yêu và đứa con trai chín tuổi trên đoạn đường từ trường về nhà!
Sự mất mát quá to lớn! Thầy Tùng như cái bóng lung lay giữa cơn nắng gió chiều. Ở vào độ tuổi gần năm mươi cú sốc định mệnh đã đẩy thầy Tùng vào con đường bế tắc. Định mệnh quá cay nghiệt. Tất cả không còn gì hết.
***
Hàng ngày thầy Tùng cố nhắc cái chân lên khỏi mặt đất, mỗi lần nhắc chân lên nắm tay mặt cũng co theo. Mỗi bước đi là sự cố gắng lớn đối với thầy, phải mất một năm rưỡi trời mới được như vầy. Ban đầu thầy Tùng ngồi trên xe lăn gần năm tháng. Theo lời bác sĩ thầy tập đứng, tập đi lần theo rượng cây, rồi từ từ đi một mình với đôi nạng, giờ bỏ nạng đi một mình. Thầy đi vòng trong sân một lúc lâu rồi lần đến băng ghế đá ngồi nhìn qua bên kia sông. Dòng sông mà từ tuổi ấu thơ thầy đã ngồi bè qua mỗi lần đi học, nó đã có biết bao kỷ niệm với hồi ức của thầy. Sông không rộng lắm, nhưng là niềm tự hào với đời thầy: "Dòng sông quê của mình đẹp nhứt!". Không nơi nào bằng, nó không rộng mênh mông như sông Hậu, không hẹp, vòng vo như con rạch mà nó thẳng thớm chảy xuôi dòng. Cứ ngày hai bận sông siêng năng cần mẫn, âm thầm làm nhiệm vụ của mình, đưa đi rồi đưa về. Đám học trò ngày một đông phải đi bằng xuồng qua sông, ai có xuồng thì bơi xuồng, ai không có thì quá giang. Có ông già dưới gốc cây ô môi làm nghề đương thúng, đương rổ vui tính, tụi học trò đem xuồng buộc dưới tán ô môi, dặn: " Ông ơi, tụi con qua lại nhờ ông đưa giùm, tụi con hùn tiền lại giúp cho ông mua rượu uống". Ông già gật gật đầu. Từ đó, ông già thêm cái nghề đưa đò, mà nói đúng hơn là ông làm nghề đưa đò từ lúc đó.
Bể hư mấy lớp xuồng, đám học trò lần lượt lớn lên đi tứ tán, đám kế lớn lên ngày một đông, nhiều khuôn mặt mới lạ. Để đáp ứng yêu cầu qua sông của đám học trò ông già mua chiếc xuồng khác lớn hơn đưa luôn khách qua sông. Con đò qua sông thay nhiều chủ, nhiều lớp không ai còn nhớ hết có bao nhiêu chuyến đò qua lại dòng sông này. Nhưng hình bóng của ông già đưa đò không phai nhạt trong tâm trí của số học trò thuở đó! Con đò chèo lắt lẻo qua sông giờ thay bằng chiếc chẹt lớn có gắn máy đuôi tôm nhiều mã lực, có phao cứu hộ, có kèn báo khi rời bến. Khách bây giờ không chỉ là đứa học trò, mà có cả xe hon-đa qua và bộ hành lạ mặt đi qua lại dập dìu. Bến đò đông đúc.
***
Thấy thầy Tùng vẫn thủy chung với vợ, đồng nghiệp rất kính phục nhưng một vài người bạn to nhỏ với thầy: "Thủy chung với vợ là lẽ đáng trân trọng, nhưng trong tình thế của thầy nên bước thêm bước nữa để có một đứa con dù là muộn màng nhưng cũng an ủi phần nào sự cô độc của tuổi già xế bóng. Thầy Tùng cũng nhận ra điều đó, nhưng hình bóng của cô giáo Trâm-vợ của thầy vẫn luôn có bên thầy không sao quên được! Thầy cũng cảm nhận chị của đứa học trò cũ của thầy luôn có những ánh mắt và lời nói chia sẻ, cảm thông. Thùy hơn ba mươi tuổi, đẹp nết, đẹp người nhưng không hiểu sao tình cảnh đẩy đưa cho Thùy lỡ chuyến đò ngang.
Thùy thường tới lui giúp đỡ nhưng việc vặt vãnh cho thầy Tùng chẳng hạn như đi chợ ngang qua hỏi thầy: "Sáng nay thầy cần ăn cá thịt gì em mua hộ cho thầy. Hoặc nhà thầy hết bột ngọt, nước mắm em sẵn mua luôn!". Thùy dù không vô tận bếp núc nấu nướng cho thầy Tùng nhưng biết trong nhà thầy thứ nào sắp hết, thứ nào còn, và cả thói quen của thầy thích ăn thịt cá gì! Số học trò mới cũ ghé thăm thấy cảnh thầy Tùng ở một mình ai cũng đốc thầy bước thêm bước nữa. Người ta ghé tai nói với Thùy: "Thầy Tùng được lắm! Tiến tới đi!".
Thầy Tùng đã nhiều lần suy đi nghĩ lại. Thùy vì là chị của học trò. Giờ cưới về làm vợ coi sao phải. Bạn bè đồng nghiệp biết được chuyện này giải thích: "Thầy sao mà còn cũ kỹ phong kiến quá. Tiến tới hôn nhân pháp luật nào ngăn cấm, đạo lý nào không cho phép?". Thấy vậy, thầy tìm cách trì trệ với bạn bè: "Việc gì đến thì sẽ đến, gấp quá không hay!".
Sự lặng lẽ của thầy Tùng làm cho Thùy cảm thấy bị tổn thương. Cô âm thầm tự tách mình ra sự gần gũi với thầy Tùng. Thoạt đầu thầy Tùng mừng vì đã thoát khỏi một thứ tình cảm vô hình. Mừng thì có mừng nhưng thầy Tùng cảm thấy mình có chút tàn nhẫn với Thùy. Và thầy cũng biết rằng, mình đã đánh mất một cơ hội hiếm có. Sự mâu thuẫn trong lòng thầy Tùng bắt đầu hình thành, bằng những ý nghĩ trái ngược với lúc ban đầu. Thùy đẹp duyên dáng, có thể là người vợ tuyệt vời với thầy! Thầy Tùng định bày tỏ lòng mình với Thùy vào một ngày gần nhứt, nhưng chưa kịp nói ra thì cơn tai biến đã biến thầy thành người tàn phế. Thầy Tùng đành ngồi trong bóng sân nhìn ra đường, nhìn người đi qua lại, nhìn dòng sông, nhìn con đò ngày ngày qua lại chở đầy khách. Thùy vẫn bình thường qua lại nhà của thầy Tùng nhưng với cặp mắt khác hơn, bao dung, độ lượng, cảm thông biết chia sẻ hơn với thầy Tùng.
"Ngày chưa mang bệnh mà không nói được gì với Thùy giờ thầy đã là người tàn phế nói gì đây với Thùy? Thôi! Đành để cho sự việc như không có gì thì tốt hơn!". Thầy Tùng giãi bày như vậy.
***
Sự siêng năng tập luyện của thầy Tùng, đã đẩy lùi được những di chứng của căn bệnh tai biến. Thầy đã dần bình phục. Đám cưới của thầy với Thùy được tổ chức vào ngày cuối năm rất đông đảo đồng nghiệp và học trò đến chia sẻ. Có lẽ mùa xuân này rất có ý nghĩ đặc biệt với thầy Tùng. Ngôi nhà đơn lẻ bỗng dưng có cái dáng dịu dàng của người phụ nữ yêu thương, cùng lúc với mùa xuân đến. Thầy Tùng vẫn ngồi ở băng ghế đá mắt hướng nhìn ra bến sông, con đò vẫn chở đầy ắp người và xe chầm chậm lướt đi trên sông.