Truyện ngắn NHẬT HỒNG
Hai Dư dẫn vợ và hai con ngồi ở bến phà Châu Giang. Tân Châu vào mùa nước nổi như chiếc phao phủ nhung xanh dài thượt giữa hai con sông Tiền và sông Hậu. Hai Dư nói với vợ:
- Mình về xứ lần này ở lập nghiệp luôn nghen!
Lụa có vẻ sợ hãi:
- Không được đâu anh! Ba em khó lắm, dễ gì quên được chuyện cũ. Em đi theo anh là “điếm nhục gia môn”. Mà anh cũng kỳ lắm, mình thương nhau thì từ từ nhờ người lớn nói giúp, dầu không chịu lâu ngày ổng cũng phải xiêu lòng...
- Xiêu sao được, ba em thì khư khư: “Hộ đối, môn đăng” còn anh... không có cục đất chọi chim.
- May cho anh lắm, đêm ấy em mà không nhanh trí dồn anh vô cần xé phủ lá dâu tằm ăn lên thì anh bị bắt đánh chết luôn.
- Thường khi cúng đình ổng ở dưới sáng đêm, sao lần đó ổng về sớm làm anh rớt tim ra ngoài.
Lụa bĩu môi:
- Anh mà rớt tim sao, dám cõng cô dâu chạy trốn làm cho cả làng dở lỡ, họ hàng cười chê. Bây giờ còn vác mặt đi về liệu ai bỏ qua cho.
- Anh có cách rồi!
- Cách gì?
- Chú hương quản Tần thương anh lắm, hồi năm đó chú đã bày kế cho anh cõng em chạy trốn tắt qua gian đồng rồi đưa qua sông. Nay ông ấy hứa nói giúp cho tụi mình trở về, nhưng phải tổ chức một tiệc nho nhỏ tạ lỗi với cha mẹ, với cô bác láng giềng.
- Em sợ ba khó tình chia cắt tụi mình, hay là mình lén về chơi rồi quay lại núi Sập làm ăn như mấy năm qua.
- Anh thấy rồi! Không xứ nào bằng xứ mình. Anh đã quyết định, mọi bề để cho anh định liệu.
Lụa biết không thể can được chồng, nên lót tót dẫn con theo Hai Dư xuống phà.
* * *
Nhờ có hương quản Tần và bà con chòm xóm người nói hộ vô một tiếng nên chuyện của Hai Dư và Lụa êm xuôi. Không ở nhà ông bà già vợ, bà con thương tình cho vợ chồng Hai Dư ở đậu ngoài chái đủ kê một cái giường ngủ và cái bếp nhỏ xíu nấu ăn. Hai Dư ban ngày đi phơi, giặt lụa ban đêm thì đập. Lụa đi dệt mướn. Nhờ khéo tay nghề nên hai Dư dễ có công việc làm. Đôi lần Lụa ứa nước mắt trên khung cửa, nhớ ngày nào làm cô chủ quản lý cả chục người thợ mà nay đi làm công cho người ta. Tiếng khen thì ít chê thì nhiều, Lụa không dám ló mặt ra chỗ đông người, gặp ai cũng tránh né. Còn biết bao nhiêu lời cay cú về Hai Dư mà Lụa không dám kể lại cho chồng nghe. Nào là: “Con gái để câu sấu còn gả cho thằng Hai Dư nghèo rớt mồng tơi. Con Lụa đẹp nhà khá giả, chỗ giàu có đến xin cưới hỏi vậy mà trốn đi theo thằng Dư ngu ơi là ngu!”.
Tủi cho phần mình, lại thương Hai Dư, Lụa thấm thía với câu nói của chồng:
- Gia đình anh nghèo nên trăm thứ thiếu hụt: Thiếu gạo, thiếu tiền... nên tía anh đặt cho cái tên “Dư” hy vọng đời anh sau này thoát khỏi cảnh nghèo túng. Nên anh quyết chí làm cho có dư để tía anh vui lòng nơi chín suối, em nở mặt nở mày...
Thấy Lụa buồn buồn, Hai Dư an ủi:
- Ráng lên em ơi! Đây chính là lúc quan trọng của đời mình, một là rớt trở lại chịu cho người ta cười chê, hai là vượt lên số phần.
Vừa nói hai Dư ôm cái hũ đựng tiền ra đếm, mặt vui hẳn lên nói với Lụa:
- Mình ơi coi nè! Nếu như qui ra lúa thì vợ chồng mình làm mỗi tháng được bốn mươi hai giạ, đây là mười tháng nè! Một năm nè! Nghe ông Ký Tốt thua me ra giá miếng đất ruộng dâu hai chục công có năm trăm giạ lúa, hay là mình nhờ chú hương quản mua giúp đi...
Lụa suy nghĩ một lúc gật đầu:
- Ừ! Cũng được!
Có được miếng ruộng dâu Lụa dệt luôn ban đêm còn hai Dư lãnh mão các khâu: Giặt, nhuộm, phơi, đập từ khi tấm lụa trắng tinh cho đến thành phẩm tấm lụa Mỹ A.
Thấy vợ chồng Lụa chăm chỉ làm ăn, mẹ Lụa thương con đem tiền trợ giúp. Hai Dư biết được nói với Lụa:
- Tấm lòng của má anh không dám phụ, nhưng mình phải quyết không nhờ vả người khác. Cố làm nên sự nghiệp. Mình nghe lời tôi tìm cách khéo đem trả tiền lại cho má đi. Sợ Lụa buồn, Hai Dư động viên: “Vợ chồng đồng lòng tát cạn biển Đông” mà mình...
Từ chỗ nhận lãnh mão các công đoạn đến thành phẩm tấm lãnh Mỹ A, không lâu sau, Hai Dư bước thêm bước nữa, làm chủ một cơ sở sản xuất lãnh Mỹ A nho nhỏ. Lụa thôi đi làm công sắm khung cửi dệt ở nhà.
“Chén để trong sóng còn khua, vợ chồng sao khỏi cảnh rầy rà, nhưng đối với vợ chồng Hai Dư có khác hơn: Miệng đang cãi với vợ mà tay ông ấy vẫn đập lụa ình ịch, còn Lụa càng tức giận chồng chừng nào tay càng nhanh trên khung cửi. Có lần hai vợ chồng cãi nhau từ đầu hôm gần tới sáng, Hai Dư đập xong cả chục xấp lụa, còn Lụa thì cũng dệt xong một tấm lụa mịn trơn - Người lối xóm kháo nhau.
* * *
Vợ chồng Hai Dư từ bàn tay trắng, không mấy năm mà tạo được cơ sở làm ăn cùng với hai chục công ruộng dâu xanh mượt, có người hỏi Hai Dư:
- Chú Hai ơi! Có bí quyết gì làm ăn mà mau giàu như vậy, chỉ cho tụi tui học coi.
Hai Dư cười khà khà...
- Bí quyết gì đâu? Đừng có đau ốm, làm mười xài một thì lâu ngày có dư, còn làm một xài mười thì hết...
Cơ sở của Lụa ngày một phát triển lên. Người ta có tiếng đồn: “Cô Lụa vui tính thương người, hay giúp đỡ những ai gặp hoàn cảnh khó khăn như đau ốm cho mượn tiền. Hai vợ chồng lúc nào cũng ngọt ngào chia sẻ với chị em công nhân nên ai cũng mến”.
Sự làm ăn ngày càng phát triển, bề thế của Hai Dư và Lụa đứng nhất nhì ở Tân Châu vào thời bấy giờ. Hàng lụa Mỹ A của Hai Dư có mặt khắp nơi còn qua tận Campuchia và Thái Lan.
Những năm về già ông Hai Dư gần như lẫn, đang khi giữa đám tiệc đông người ông vỗ vai người quen hỏi:
- Trời mưa này dâu xanh mượt hả?
Người ta chưng hửng.
- Dâu ở đâu mà có?
- Trời! Tân Châu này hàng trăm công dâu chú mầy bước ra vườn mà xem.
- Ông già ơi, chuyện đã qua gần nửa thế kỷ rồi.
Khi có người đến nhà chơi ông Hai Dư hăng say kể:
- Cả vùng Tân Châu này thời đó rộn ràng vui lắm, người người trồng dâu nuôi tằm, kéo tơ dệt lụa. Sáng sáng các cô thôn nữ đem lụa nhuộm vào nước mặc nưa rồi đi phơi, giặt. Tối đến các thanh niên trai tráng dùng chày nện, đạp cho dập mình tơ trên tấm lụa rồi đem đi nhuộm, làm như vậy bảy tám lần cho đến khi tấm lụa đen mượt mới thôi. Cầm tấm lụa Mỹ A mượt mát trên tay ai cũng mê thích. Lụa Mỹ A cô gái bây giờ sẽ duyên dáng hơn và đẹp hơn.
Một đêm vắng ông Hai Dư gọi bà Hai thức dậy hỏi: “Bà có nghe tiếng gì không? Chừng như có tiếng đập lụa ình ịch đó! Vui quá!”. Rồi ông nhắm mắt xuôi tay. Bến sông Tiền, sông Hậu nước đầy ăm ắp gói kín chuyện tơ tằm, chuyện ông Hai Dư làm giàu trên vùng đất quê hương trù phú đầu nguồn sông Cửu Long nửa thế kỷ trở về trước dần dà trở thành câu chuyện truyền kỳ vùng quê lụa.