Luật sư Trần Minh Trị
Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP Cần Thơ
Về thời hiệu thừa kế
Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005 quy định thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Thực tế theo truyền thống gia đình Việt Nam, con cái thường rất e ngại yêu cầu chia thừa kế khi cha hoặc mẹ còn sống, nên nhiều trường hợp không đảm bảo được quyền thừa kế vì hết thời hiệu. Để khắc phục “điểm thắt” này, Tòa án áp dụng theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao: “Sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế”.
Tuy nhiên, hướng giải quyết này cũng gặp “điểm thắt” khác là đa phần người thừa kế đang quản lý di sản đều không thừa nhận di sản là tài sản chung chưa chia, nên không thể chuyển di sản thành tài sản chung để phân chia theo yêu cầu của các đồng thừa kế còn lại. Vì vậy, thực tế các tranh chấp về thừa kế thường phức tạp và kéo dài, cho thấy các quy định pháp luật hiện hành về thừa kế có vấn đề gì đó chưa phù hợp với thực tiễn cuộc sống.
Có ý kiến đề nghị cần loại bỏ quy định về thời hiệu thừa kế để đảm bảo quyền thừa kế, tuy nhiên, các tranh chấp vốn rất phức tạp và ảnh hưởng nhiều đến quan hệ huyết thống, nếu thời gian càng dài thì chứng cứ càng mờ nhạt và khó xác định tính trung thực. Do đó, việc đưa ra giải pháp vừa bảo đảm một cách tương đối về quyền thừa kế, vừa không để các vụ tranh chấp kéo dài không có hồi kết là phương án khả thi dễ được chấp nhận rộng rãi.
 |
Bà Phan Quỳnh Dao, Phó Giám đốc Sở Tư pháp thành phố đang phổ biến, hướng dẫn các nội dung liên quan đến việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo Bộ luật Dân sự sửa đổi cho lãnh đạo các sở, ban, ngành, địa phương. Ảnh: L. P |
Dự thảo BLDS sửa đổi đã khắc phục các vướng mắc này tại Điều 646 về “Thời hiệu thừa kế”. Bên cạnh việc tăng thời hạn yêu cầu Tòa án giải quyết việc thừa kế lên 30 năm, kể từ ngày mở thừa kế đối với bất động sản, Dự thảo còn bổ sung quy định “Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó”, nhằm xác định người thụ hưởng di sản và giới hạn thời gian giải quyết dứt điểm tranh chấp về thừa kế.
Quy định này của Dự thảo BLDS sửa đổi cũng mở ra khả năng bảo đảm tính ổn định của di sản và bảo vệ quyền của người thừa kế, đồng thời cũng bảo vệ những người ngay tình khi chiếm hữu di sản.
Về di sản dùng vào việc thờ cúng
Quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng tại Điều 671 Dự thảo BLDS sửa đổi chưa được định lượng cụ thể, cũng không có “phương án” cho trường hợp tất cả các đồng thừa kế theo di chúc đều đã chết. Về mặt khái niệm, di sản thờ cúng là phần tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết để lại được trích ra từ khối di sản và dịch chuyển cho người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng. Người đang quản lý di sản thờ cúng có quyền quản lý di sản thờ cúng và hưởng dụng mà không có quyền sở hữu, do đó không có quyền định đoạt di sản thờ cúng dưới bất kỳ hình thức nào.
Bên cạnh đó, Điều 671 Dự thảo BLDS sửa đổi quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng mới chỉ đề cập ở tính kinh tế mà chưa đề cập đến giá trị truyền thống, tính chất xã hội và tính lưu truyền của nó mà chỉ được quy định tương đối sơ lược với một điều luật, nên có thể dẫn đến những “khoảng trống” như sau:
- Dự thảo BLDS sửa đổi không quy định về hình thức của việc lập di sản thờ cúng, nên khi có trường hợp lập di sản thờ cúng bằng một văn bản độc lập khác ngoài di chúc thì có được coi là hợp pháp hay không; khi xảy ra tranh chấp cơ quan xét xử đánh giá chứng cứ theo căn cứ nào.
- Dự thảo BLDS sửa đổi cũng không quy định loại di sản thờ cúng đã được đời trước lập sẵn di chúc cho người quản lý di sản, sau đó khi người này chết thì sẽ dịch chuyển cho ai quản lý. Nếu người này không lập di chúc để truyền lại di sản thờ cúng đó cho con cháu ở đời tiếp theo thì sẽ dẫn đến hai cách xác định di sản thờ cúng khác nhau, hoặc vẫn coi là di sản thờ cúng để mặc nhiên dịch chuyển cho người quản lý tiếp theo, hoặc di sản thờ cúng phải chia theo pháp luật vì không được định đoạt trong di chúc.
- Dự thảo BLDS sửa đổi không quy định quyền và nghĩa vụ của người quản lý di sản thờ cúng, vì vậy không có cơ sở để xác định việc một người có vi phạm nghĩa vụ thờ cúng hay không; họ có những quyền lợi nào khi thực hiện nghĩa vụ thờ cúng. Nếu người lập di chúc không xác định cụ thể về quyền và nghĩa vụ và những người thừa kế cũng không thỏa thuận về vấn đề này thì dựa vào tiêu chí nào để xác định họ đã vi phạm nghĩa vụ thờ cúng.
- Dự thảo BLDS sửa đổi không quy định ai là người đại diện trước cơ quan bảo vệ pháp luật khi di sản thờ cúng bị chiếm hữu trái pháp luật. Khi quyền sử dụng đất của dòng họ dùng làm nơi thờ cúng bị chiếm hữu trái pháp luật, thì người khởi kiện sẽ gặp khó khăn do tư cách chủ thể khởi kiện không đảm bảo. Đây là một nội dung khá phức tạp bởi vì di sản thờ cúng không thuộc sở hữu của chủ thể nào, không phải dòng họ nào cũng có hội đồng gia tộc, nhưng pháp luật lại cấm những hành vi xâm phạm tới di sản thờ cúng, xâm phạm tới đời sống tâm linh của một dòng họ.
- Vấn đề nữa, di sản thờ cúng có thời điểm kết thúc hay không, nếu sử dụng qua nhiều đời sẽ không còn được nguyên trạng nữa. Vậy cơ chế nào cho phép người quản lý di sản thờ cúng tôn tạo, xây dựng mới nhà thờ cũng như tất cả các đồ thờ cúng, và khi đó, vấn đề sở hữu di sản thờ cúng sẽ xử lý ra sao...
Di sản thờ cúng là một loại tài sản độc lập về quy chế pháp lý nhưng ảnh hưởng đến đời sống tâm linh cũng như quan niệm về lễ hiếu của người dân, nhưng pháp luật dân sự hiện nay vẫn chưa dành sự quan tâm thích đáng cho loại di sản có tính chất đặc biệt này. Đây là ý nguyện cuối cùng của người quá cố nên cần phải được tôn trọng bằng căn cứ luật pháp, vừa bảo đảm thực hiện theo ý chí của người để lại di sản, vừa có cơ sở để thực hiện quyền của người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng. Vì vậy Dự thảo BLDS cần phải “luật hóa” được các nội dung này để đảm bảo đáp ứng nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội có tính phổ biến trong thực tiễn.