31/01/2011 - 17:04

Xứ sở lúa gạo

Thiên tử cầm roi đi cày

Trần Vân Anh

Người ta nói cứ lần theo những trang ghi chép của người xưa, xâu chuỗi những câu chuyện được lập lại trong lịch sử dù khoảng cách thời gian được đo hàng 6-7 thế kỷ... sẽ hiện ra cuộc hành trình như một miên khúc, lạc giữa can qua, đô hộ nhưng ở đó sẽ thấy tổ tiên chưa bao giờ lạc lối.

Mỗi triều đại là một dấu ấn: Thời Lý, vào mùa Xuân 1038, Vua Lý Thái Tôn (1028-1054) đến Bố Hải khẩu làm lễ Tịch Điền, đích thân Vua cầm cày. Sách ghi lại, khi các quan can gián, Vua Lý Thái Tôn hỏi lại: “Trẫm không cày thì lấy gì mà làm xôi cúng. Lấy gì để xướng xuất thiên hạ?”.

Đến thời vua Minh Mạng, lễ Tịch Điền được gọi là tháng trọng xuân. Khi lên ngôi vào năm 1820, vua ra lệnh chuyển ruộng Tịch Điền về An Trạch và Hậu Sinh.

Theo Tiến sĩ Trần Văn Đạt, nguyên Chánh chuyên gia Tổ chức Lương – Nông LHQ (FAO): Nếu thời Lý, vua Lý Thánh Tôn ban chiếu khuyến dân làm ruộng, cho đắp đê Như Nguyệt ở sông Cầu để bảo vệ cư dân và thành phố thì năm 1266, nhà Trần cho thi hành chính sách khẩn hoang. Các vương hầu tôn tử chiêu mộ các phần tử lưu tán đi khẩn hoang nhằm tăng gia diện tích canh tác. Thời nhà Hồ, Hồ Quý Ly đặt ra chính sách hạn danh điền để hạn chế ảnh hưởng của công thần nhà Trần, với lệnh ban: “Đại vương và trưởng công chúa vô hạn cho đến thứ dân ruộng 10 mẫu. Người nào nhiều ruộng được phép tự ý đem ruộng chuộc tội, bị biếm truất cũng như vậy. Người nào thừa ra thì đem nạp vào của công.(*)

Ông Huỳnh Văn Thòn (thứ ba từ trái qua) và các FF. Ảnh: V.A 

Thời Trịnh - Nguyễn, năm 1711, ở Đàng Ngoài, Trịnh Cương ra lệnh không cho phép các hào phú thừa lúc dân cư bần khổ phiêu dạt mà kiếm cớ thu mua ruộng một cách bất chính. Đến năm 1740, Trịnh Danh muốn áp dụng chính sách “tỉnh điền” (ruộng đất chia ra làm 9 vùng, những vùng ở giữa thuộc công điền, ở ngoài thuộc tư điền, phỏng theo đời nhà Chu ở Trung Quốc) để quân bình giàu nghèo, chia đều thuế dịch bằng cách công-hữu-hóa ruộng đất trong làng rồi chia cho dân cày trồng trọt để nộp tô, nhưng chính sách này không thể thực hiện được. Trái lại, ở Đàng Trong, chúa Hiền đặt ra một ty Khuyến Nông để đẩy mạnh công cuộc khẩn hoang và cũng để phân hạng ruộng đất đã cày cấy trồng trọt.

Nhà Tây Sơn sau khi đại thắng nhà Thanh năm 1789 (cùng thời với Đại đế Napoléon, Pháp), vua Quang Trung ban bố chiếu Khuyến Nông đề ra những biện pháp tích cực và thực tế để giải quyết hai vấn đề xã hội và kinh tế khó khăn lúc bấy giờ: Làm sao cho ruộng đất sản xuất nhiều? Làm sao cho nhân khẩu gấp rút gia tăng để cho dân số mau đông đảo?

Nhà Nguyễn, từ thời vua Minh Mạng ngoài việc lập sở Tịch Điền còn xây dựng kho chứa lúa gạo ở các Trấn để phòng khi bị bão lụt, hạn hán hoặc lúc đói kém.

Tìm kiếm trong sử sách, khoảng 1000 năm bị giặc phương Bắc đô hộ và những giai đoạn giành lại hòa bình đan xen, năng suất lúa không hơn 1 tấn/ha. Mãi đến khi cuộc khẩn hoang ở ĐBSCL do Nhà Nguyễn khổ công thực hiện bằng sự phối hợp chính trị, quân sự, kinh tế và văn hóa mới tạo ra nền móng cho những điền trang, xóm ấp trù phú.(*)

Nhà văn Sơn Nam chia cuộc vận động lớn này ra 3 thời kỳ:

(1) Từ các chúa Nguyễn trước đến thời Gia Long: Khai khẩn các khu đất trù phú ven sông rạch, cù lao, như thành lập các trấn Biên Hòa, Gia Định, Định Tường và Vĩnh Thanh, theo nhu cầu phát triển của Đàng Trong, phục quốc và củng cố quốc gia.

(2) Từ cuối đời Gia Long đến cuối đời Minh Mạng: Khai khẩn phía hữu sông Hậu nối qua vùng đồi núi Thất Sơn vì nhu cầu xác nhận biên giới Việt Miên. Thành lập An Giang tách ra từ trấn Vĩnh Thanh.

(3) Từ đời Thiệu Trị đến Tự Đức: Khai khẩn những điểm chiến lược nhằm đề phòng nội loạn ở Hậu Giang. Chính sách đồn điền được phát triển mạnh.

Năm 1820, số ruộng và đất nạp thuế trong cả nước là 3.070.000 mẫu ta. Năm 1840 tăng lên 4.063.892 mẫu ruộng và đất. Trong 20 năm, diện tích đất khẩn hoang gia tăng gần 1 triệu mẫu. Tuy nhiên, số ruộng bỏ hoang vẫn còn nhiều đến 395.488 mẫu (Trần Trọng Kim: Việc Đinh điền và thuế má, thời vua Minh Mạng). Ngành nông nghiệp và sản xuất lúa gạo vẫn là mạch sống chủ yếu của dân tộc và các triều đại quân chủ phong kiến.

“Năm 1828, trong khi Nguyễn Công Trứ được vua Minh Mạng cho phép thiết lập các doanh điền và đồn điền, ông khai hoang lập ấp ở Tiền Hải (Thái Bình), Kim Sơn (Ninh Bình) và Hải Hậu (Nam Định) thì năm 1834, Trương Minh Giảng lập được 41 xã thôn và phường phố ở An Giang và Hà Tiên. Năm 1853, Nguyễn Tri Phương lập được 124 ấp trong các tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Định Tường và Gia Định. Tháng 8 - 1854, Nguyễn Tri Phương lại lập được 21 cơ sở đồn điền rải rác ở các tỉnh Nam Kỳ và một số tỉnh Trung Kỳ.(*)

Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn, các đồn điền sau này sớm trở thành sở hữu của các quan đồn điền. TS Trần Văn Đạt nhận xét “Dưới triều Nhà Nguyễn, nạn lưu vong là nạn thảm khốc đối với người nông dân vì họ bị bóc lột và đói khát”.

* * *

Ngày nay, vùng châu thổ Cửu Long thuộc Việt Nam rộng gần 40.000 cây số vuông. Mỗi năm, dân châu thổ làm ra hơn 21 triệu tấn lúa; Chia sẻ cái ăn với toàn cầu mỗi năm 6 triệu tấn gạo.

Trong câu chuyện đời người làm lúa lại gắn với thực trạng “đụng hàng, rớt giá”! Người dân Tân Khánh Hòa, huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang-sát biên giới với Campuchia, khi tính chỉ số hạnh phúc của trồng lúa nói “Hồi giá lúa 10.000 đồng ba ký, chán quá muốn tự vẫn”.

Câu chuyện buồn-vui, được- mất, đôi khi chỉ có 100-200 đồng! Nhưng đó là lỗ nhỏ... có thể đắm thuyền. “Tui làm giống OM 2517, người ta mua giá 5.200đ/kg, phải chi tui làm giống OM 4900, bán được 5.500-5.600đ/kg”, một nông dân nói.

Ông Huỳnh Văn Thòn, Tổng giám đốc Công ty CP BVTV An Giang (AGPPS), người đang ôm ấp một dự án lúa gạo khép kín từ ngoài đồng tới bàn ăn, hỏi “Vậy tại sao ông không làm OM 4900?”. Người nông dân tội nghiệp trả lời: “Năm ngoái OM 4900 đâu có ai mua!?”.

Có cách nào thoát khỏi cảnh này? Ông Thòn có một dự án kết nối 100.000 hộ, quy mô khoảng 200.000 ha. “Đó là mô hình chi phối suy nghĩ trong 20 năm nay”, ông Thòn nói – “Cái chính là tính sao cho nông dân, doanh nghiệp đều có lời từ những quyết định trên thương trường chứ không phải tạo áp lực với nông dân để kiếm lời. Mình phải tính cho nông dân trước, phần còn lại mới tới DN”.

Điểm tựa của ý tưởng này là con người. Một kỹ sư FF (Farmer’s Friends – Bạn của nhà nông) làm việc với 20 nông dân, hướng dẫn họ làm lúa theo quy trình mới, bao tiêu sản phẩm, tổ chức sấy, xay xát, đóng gói, tạo sản phẩm thương mại có tên tuổi, hình ảnh khác biệt, có lộ trình nhận diện thương hiệu đàng hoàng... hợp đồng theo kiểu AGPPS: cung cấp vật tư cho nông dân, tiêu thụ lúa, tính đúng, tính đủ mọi khoản chi phí để định giá mua cho nông dân.

Có thể xem đây là dấu ấn của thời kỳ lúa mới?

“Mình làm như vậy đúng không? Thấy có cần thiết không? Có gì sai không? Nếu không thì làm”, ông Thòn hỏi những người anh em AGPPS và bắt đầu cuộc hành trình mới.

Lộ trình mới, theo ông, tới năm 2015 AGPPS sẽ tuyển xong 1.000 FF kỹ sư. “Số này có vô, có ra, có lên, có xuống chứ không phải “ao tù nước đọng”... có người sẽ chuyển qua bán hàng hoặc làm khuyến nông, làm quản lý, thậm chí ra ngoài mua bán hoặc làm ứng viên “ghế” phó chủ tịch xã...”, ông Thòn cho biết. Tới năm 2014, tuyển xong 4.000 FF trung cấp, đến 2020, đội quân FF lên tới 5.000 người. 4.000 trung cấp FF được kèm cặp thực tế và học liên thông thành kỹ sư. Tới năm 2023, hoàn thành chương trình tiếp cận 100.000 nông dân để xây dựng những mô hình sản xuất khép kín, chủ động kiểm soát dịch hại, tạo sản phẩm có sức cạnh tranh...

Điểm nhấn trong lộ trình này là xây dựng trại Định Thành thành điểm nối FF với 100.000 hộ nông dân, nhà khoa học, các viện trường, các cơ quan nghiên cứu quốc tế và các công ty cùng làm ăn với AGPPS. Gắn với lộ trình này là những chuyển đổi lớn trong cách nâng cao vai trò từng tác nhân trong chuỗi giá trị và nhìn cho đúng khả năng của từng khâu trong chuỗi giá trị và phân chia hợp lý lợi ích. Người ta nói nông dân hay bẻ kèo, có thể sẽ xảy ra nhưng lâu nay công ty vẫn tăng trưởng đó chứ”, ông Thòn không ngại điều đó, nói: “Dự tính 3 vụ nữa AGPPS mới mua lúa, nhưng chuẩn bị vận hành mô hình ở Thoại Sơn, tỉnh An Giang thì nhu cầu bao tiêu hết sức thúc bách. Tôi quyết định trong năm nay và năm tới, AGPPS sẽ mua ít nhất 150.000 tấn lúa của nông dân trồng theo quy trình an toàn”.

* * *

Bà Lay, “hàng xáo”, ở Battambang mua 20 tấn gạo Phkamalis, Phkakhanhay nổi tiếng ở Campuchia về Hội chợ thương mại quốc tế Tịnh Biên (8-2010), nấu cơm dùng thử theo kiểu tiếp thị của thương nhân lúa gạo Thái Lan. Bà nhanh nhẩu bưng nồi cơm khoe với khách, lại đúng ngay “ông lúa khoai Huỳnh Văn Thòn”. Câu chuyện lúa ngoại, lúa nội một thời rộn lên ở vùng biên giới này rất nghiệt ngã, ngay cả với những người có ý tưởng lập trang trại đi thuê đất bên Campuchia trồng lúa, mang phần thặng dư về nhà cũng không phải dễ.

Ông Thòn hiểu rằng lúa gạo cần cái nhìn khác. Các FF đã chứng minh từ thực tế khá bất ngờ tại Kongpong Chnăng khi những ruộng lúa đạt năng suất 8,4 tấn/ha thay vì 2,2 tấn/ha như hàng trăm năm nay.

“Các chuyên gia, FF từ Việt Nam sang Kongpong Chnăng đã sản xuất trong điều kiện bình thường”, ông Thòn nói: “Kết quả ở đây khẳng định nước tưới, giống lúa, kỹ năng chăm sóc, kiến thức kiểm soát dịch bệnh trên đồng ruộng, cung cấp dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp kịp thời... đã bảo đảm năng suất tăng gấp 4 lần”.

5 năm trước, AGPPS thiết lập văn phòng đại diện tại Campuchia để thúc đẩy hoạt động chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và khảo sát thị trường. Năm ngoái, các FF được tăng viện cho các mô hình chuyển giao giải pháp kỹ thuật trọn gói trên đất bạn. Quốc vụ khanh Kith Seng và Tổng cục phó Tổng cục Nông nghiệp đánh giá cao mô hình này. Phó tỉnh trưởng tỉnh Kongpong Chnăng Cheng Nhanh, đề nghị ông tiếp tục hỗ trợ và mở nhiều lớp tập huấn cho cán bộ nông nghiệp các huyện để tạo sự “đột phá” sản lượng sau khi nhìn thấy triển vọng từ lực lượng hiến binh Hoàng gia.

Trong ký ức sâu thẳm của ông Thòn, xứ sở Chùa Tháp từng cưu mang lớp người kháng chiến chống ách nô dịch như ông, tâm thế khi trở lại Campuchia là muốn cùng những người anh em giúp bạn tự túc lương thực và có dư gạo để xuất khẩu. Cuộc gặp gỡ vào ngày 4-4-2010, ông Thòn đã nói với trợ lý Thủ tướng Hun Sen như vậy.

Thương vụ Việt Nam tại Thủ đô Phnom Penh cho những con số: Tổng kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Campuchia tăng trưởng mạnh từ 935 triệu USD năm 2006 lên 2 tỉ USD trong năm 2010. Có biết bao điều phía sau con số này? Trong suy nghĩ của ông, giúp nhau nâng sản lượng lương thực hai quốc gia lên sẽ tạo ra hai tiếng nói lớn hơn trên thị trường lúa gạo thế giới, cùng tính toán việc mua bán, cùng lo cái ăn, cùng thắt chặt quan hệ láng giềng sâu đậm thì mọi chuyện sẽ tốt hơn rất nhiều.

Kịch bản nước biển dâng cao 1m, hơn 40% diện tích của ĐBSCL phía Việt Nam sẽ chìm trong nước mặn. Điều gì sẽ xảy ra với người trồng lúa? Người ta lo ngại làn sóng tị nạn môi trường. Ông Thòn đã hướng suy nghĩ - theo một cách khác, hóa giải sự lo âu ấy bằng phương thức xuất khẩu kỹ thuật, mở lối cho mọi hình thức hợp tác phát triển vùng trồng lúa với điểm tựa là... tấm lòng. FF sẽ trải lòng ra cùng ăn, cùng ở, cùng làm.

Trong câu chuyện trà dư tửu hậu, ông Thòn hóm hỉnh nói: “Hồi xưa làm nông nghiệp xếp theo hàng dọc, đàng trước thẳng, ngành nghề khác đứng đầu, người làm dịch vụ nông nghiệp như tụi tui đứng chót. Khi nói tới an ninh lương thực, đàng sau quay thì tụi tui thành hàng đầu?”, ông Thòn khẽ khàng nói.

Sẽ có hai dòng sản phẩm chảy tràn trên thị trường lúa gạo. Một dòng từ ruộng lúa Việt Nam và một dòng từ điền trang của xứ Chùa Tháp. Dấu ấn của người Việt hiện đại là gánh vác 20% nhu cầu lương thực thế giới. Con số đó sẽ nhân lên từ những cách làm xuyên biên giới.

Ở đó, từ ngàn xưa trên xứ sở này, vua cũng đã xuống ruộng cầm roi đi cày.

--------------
(*) Những tư liệu trích từ “Lịch sử trồng lúa Việt Nam” của TS Trần Văn Đạt.

Chia sẻ bài viết