21/01/2008 - 23:56

Kỷ niệm 40 năm Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968

Suy nghĩ về chiến thắng trong Tết Mậu Thân 1968 (kỳ 2)

(Tiếp theo và hết)

Điều này, khiến giới lãnh đạo Washington kinh hoàng vì khi cuộc tiến công “Tết Mậu Thân” vừa xảy ra, nhiều nhà hoạt động chính trị Mỹ đã ý thức được ngay rằng: Cuộc tiến công “Tết Mậu Thân” chứng tỏ Mỹ hoàn toàn không kiểm soát được gì đất nước này”(5) “... chứng tỏ  nhân dân  Nam Việt Nam ủng hộ kẻ thù của Mỹ”(6).

Thực hiện kế hoạch đã định, cuối tháng 1 - 1968, ta bắt đầu mở đợt hoạt động lớn ở Mặt trận Đường 9 - Khe Sanh, nhằm đánh lạc hướng, thu hút một bộ phận đáng kể quân cơ động của Mỹ; vây hãm, giam chân và tiêu hao chúng, tạo thế cho các chiến trường khác tiến công và nổi dậy. Lập tức, tướng Westmoreland  - Tổng chỉ huy quân Mỹ ở nam Việt Nam, phải điều quân tăng cường, chống giữ; cho không quân ném bom các khu rừng chung quanh căn cứ Khe Sanh và khu vực giới tuyến. Như vậy, tướng Westmoreland đã sập vào đòn nghi binh chiến lược của ta.

Cùng thời điểm này, trên chiến trường nước bạn Lào, từ ngày 12 đến 27-1-1968, quân đội Pa-thét Lào và Quân tình nguyện Việt Nam mở chiến dịch Nậm Bạc đã thắng lớn. Chiến thắng này là sự phối hợp nhịp nhàng với cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân của chúng ta.

Đêm 29 rạng ngày 30-1-1968 (tức đêm giao thừa Tết Mậu Thân, theo lịch miền Nam), quân và dân ta đồng loạt nổ súng tiến công trên toàn chiến trường miền Nam, gồm 4 thành phố, 37 thị xã và hàng trăm thị trấn, 4 Bộ tư lệnh Quân đoàn địch, hầu hết các bộ tư lệnh sư đoàn, 30 sân bay và gần 100 cơ sở hậu cần của chúng. Trong đó, có những trận đánh gây chấn động lớn như trận đánh vào Dinh Độc lập, vào Bộ Tổng tham mưu, vào Đài phát thanh Sài Gòn, vào tòa Đại sứ Mỹ và đặc biệt ta đã làm chủ thành phố Huế trong 25 ngày đêm.

Cuộc Tổng tiến công táo bạo của ta đã làm cho bộ máy điều hành chiến tranh Việt Nam của Mỹ sững sờ. Chỉ trong 24 giờ đồng hồ, toàn bộ hậu phương an toàn nhất của kẻ địch đều bị tiến công đồng loạt. Cái thế của hai bên trong chiến tranh bị đảo lộn, hậu phương của địch bỗng chốc trở thành tiền tuyến nóng bỏng. Đúng là ta đã ra những đòn sấm sét ngay trong lúc Mỹ - ngụy có hơn một triệu quân, nắm trong tay những phương tiện chiến tranh hiện đại, lại bố trí trong thế phòng thủ liên hoàn vững chắc, mà chúng hoàn toàn bị bất ngờ. Có thể nói, đợt đầu của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân, chúng ta đã ra đòn bất ngờ và đánh trúng vào hệ thần kinh trung ương của địch, đánh vào “huyết mạch”, vào “tim óc” và “yết hầu” của chúng.

Đòn tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 như một quả bom nổ giữa chính trường nước Mỹ, đã gây kinh hoàng cho cả nước Mỹ, khiến cho chính quyền Mỹ choáng váng. Qua sự kiện Tết Mậu Thân, công chúng Mỹ đã thấy được Chính phủ Mỹ đang lừa dối họ. Do đó, phong trào phản đối chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam càng lên cao. Nhiều người trong chính giới Mỹ đòi xét lại chính sách của Mỹ với cuộc chiến tranh này.

Ngày 27-2-1968, Crô-ki-tơ, một phóng viên chính của Hãng truyền hình CBS Mỹ đến Sài Gòn tận mắt xem xét tình hình, đã bình luận: “Giờ đây, có lẽ điều chắc chắn hơn bao giờ hết là cuộc chiến tranh đẫm máu ở Việt Nam sẽ đi vào bế tắc” và nói thêm rằng “chỉ còn một cách để người Mỹ thoát khỏi vũng lầy là thương lượng với Hà Nội”(7). Trước tình hình đó, Quốc hội Mỹ phải xem xét lại toàn bộ chính sách và chiến lược của Mỹ ở nam Việt Nam. Nội bộ các cố vấn thân cận Tổng thống Mỹ diễn ra sự chia rẽ gay gắt về quan điểm đối với cuộc chiến tranh mà Mỹ đang theo đuổi ở Việt Nam. Dư luận Mỹ và phần lớn nghị sĩ Quốc hội, quan chức cao cấp trong chính quyền và giới tài phiệt nhận thức rõ ràng rằng: Mỹ không thể giành chiến thắng ở Việt Nam; rằng có tăng quân, tăng tiền của, Mỹ cũng không thể giành lại quyền chủ động trên chiến trường. Ngày 25-3-1968, Tổng thống Johnson và Bộ trưởng Quốc phòng Clifford (người mới thay McNamara) phải triệu tập cuộc họp gọi là “những người am hiểu và khôn ngoan nhất”, gồm  14  quan chức cao cấp. Sau những tranh cãi gay gắt, thì 10 trên 14 người đã tán đồng chấm dứt leo thang chiến tranh và có biện pháp rút lui ra khỏi cuộc chiến. Tiếp đó, ngày 26-3-1968, Bộ trưởng Quốc phòng Clifford đã báo cáo với Tổng thống rằng, theo ý ông, cuộc chiến tranh Việt Nam là “một canh bạc thua thực sự”(8). Cuối cùng, nước Mỹ đã đi đến quyết định: Tướng Westmoreland - Tổng chỉ huy quân Mỹ ở nam Việt Nam bị cách chức; Đô đốc Sáp thôi giữ chức Tư lệnh Thái Bình Dương. Ngày 31-3-1968, Johnson buộc phải đơn phương tuyên bố: Ngừng ném bom bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra, chấp nhận ngồi vào bàn hội nghị, đàm phán song phương với ta tại Paris về lập lại hòa bình ở Việt Nam,  chấm dứt việc đưa quân Mỹ vào chiến trường miền Nam và tuyên bố không ra tranh cử nhiệm  kỳ thứ hai. Đây là sự công khai thừa nhận chiến lược “Chiến tranh cục bộ” đã phá sản.

Vì thất bại nặng nề, sau Mậu Thân 1968, Mỹ buộc phải thay đổi chiến lược chiến tranh, tiến hành “Việt Nam hóa chiến tranh” (thực chất là thay mầu da trên xác chết, như một quan chức Mỹ nói). Để thực hiện kế hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh”, chúng tiến hành theo ba bước. Bước một, đến 30-6-1970: Thực hiện “bình định” vùng đông dân để quân Mỹ rút được một bộ phận. Bước hai, đến 30-6-1971: “Bình định” được tất cả các vùng đông dân  để quân Mỹ rút được đại bộ phận lực lượng chiến đấu. Bước ba, đến 30-6-1972: Cơ bản, Sài Gòn chỉ huy được miền Nam. Hoàn thành giai đoạn cơ bản nhất của “Việt Nam hóa chiến tranh”. Mỹ sẽ rút hết quân về nước, đáp ứng kịp thời việc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11-1972.

Mỹ đề ra kế hoạch “phát triển tối tân hóa” quân ngụy, chúng dự kiến tiến hành trong ba giai đoạn: Giai đoạn 1: Với số quân 875.790 người. Giai đoạn 2: Đưa quân số lên 992.836 người, bổ sung cho giai đoạn 1. Giai đoạn 3: Đưa số quân lên 1.100.000 người. Để bảo đảm số quân, chúng ra sức bắt lính, đôn quân. Chúng bắt hết thanh niên vào lính. Chúng chú trọng phát triển cả ba quân chủng: thành lập bộ tư lệnh lục quân, phát triển thiết giáp, pháo binh, hiện đại hóa trang bị. Trong ba năm 1968 - 1970, địch tăng thêm 16 tiểu đoàn pháo 105 li, 9 tiểu đoàn pháo 155 li, 77 tiểu đoàn pháo lãnh thổ, 25 ban pháo tiểu khu. Khối bộ binh cơ động tăng từ 50 tiểu đoàn (12-1968) lên 90 tiểu đoàn (1-1970). Về không quân, số máy bay tăng từ 400 chiếc các loại năm 1968 lên 784 chiếc trong năm 1971. Hải quân phát triển từ 660 chiếc tàu các loại năm 1968 lên 1.037 chiếc trong năm 1970. Và 2.000 xe tăng và xe bọc thép...

Đến cuối năm 1971, quân Mỹ cơ bản đã chấm dứt vai trò chiến đấu trên bộ. Tính đến ngày 31-1-1972, tổng số quân Mỹ ở miền Nam chỉ còn 139.000. Tính theo đơn vị, 30 trên tổng số 34 lữ đoàn đã rút. Như vậy, đến đầu năm 1972, Mỹ đã cơ bản thực hiện xong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Nhưng lúc đó, bộ đội ta, kể cả lãnh đạo, chỉ huy chưa hiểu hết cái khó khăn, khốc liệt của “Việt Nam hóa chiến tranh” và chưa thấy hết cái độc ác của đế quốc Mỹ (có thể nói cái độc ác này chưa từng có trong lịch sử); nên lúc đầu, có nơi bộ đội ta đã thoát ly khỏi địa bàn, không làm chỗ dựa cho dân, cho cơ sở chống “bình định”, nên đã gây cho dân và cơ sở nhiều tổn thất. Đây cũng là bài học xương máu.

Trong quá trình rút quân, Mỹ dùng mọi thủ đoạn độc ác và mọi biện pháp như: Tăng cường cảnh sát và mật thám ở đô thị, gom dân vào ấp chiến lược ở nông thôn, tăng cường bắt lính, xây dựng ngụy quân, ngụy quyền. Nhân dân ở đô thị sống trong cảnh ngột ngạt đến nghẹt thở dưới sự kiểm soát, o ép của chính quyền ngụy. Người dân trong ấp chiến lược như sống trong trại tù khổng lồ. Vì vậy, khi thời cơ chín muồi (Mỹ rút hết quân), có tác động mạnh của bộ đội ta và hoạt động nhịp nhàng của các ngành, các chiến trường, thì những người bị bắt lính, những người sống nghẹt thở ở đô thị và những người bị nhốt trong ấp chiến lược được bung ra thành những người tự do, thành vùng tự do, đỉnh cao là chiến dịch  Sài Gòn - Gia Định mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trên đà thắng lợi Tết Mậu Thân 1968, quân và dân ta tiếp tục chiến đấu, dù còn phải trải qua nhiều gian khổ, ác liệt, hy sinh, nhưng chúng ta có điều kiện mới và thời cơ mới để thực hiện thắng lợi Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

40 năm nhìn lại, chúng ta càng thêm tự hào về ý nghĩa, tầm vóc của Chiến thắng Mậu Thân 1968 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc. Đó là thắng lợi của ý chí độc lập tự chủ, bản lĩnh và sáng tạo trong việc đề ra chủ trương chiến lược; là thắng lợi của niềm tin  tuyệt đối của toàn dân, toàn quân vào sự lãnh đạo của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu; là thắng lợi của lòng yêu nước nồng nàn, sức mạnh  của khối đại đoàn kết toàn dân, tất cả vì chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”!

Kỷ niệm 40 năm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân - 1968 là dịp để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta ôn lại một sự kiện lớn đánh dấu một mốc son trong lịch sử đấu tranh cách mạng hào hùng của dân tộc, nhằm giáo dục truyền thống yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam và phát huy tinh thần cách mạng tiến công, biến thành những việc làm cụ thể, kết quả cụ thể của mỗi người, của mọi người vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,  xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

(Theo Báo Nhân Dân)


---------------
(5, 6). Lời của E. Mc.Các-ti, G.Rôn-nây, R. Ken-nơ-đi. Dẫn theo Đôn O-bớc-đoi-phơ, Tết, Doubeday Company, New York, 1971. Nxb Tổng hợp An Giang trích dịch, 1988, tr 116.
(7). Theo J.Pim-lốt, trong cuốn “Việt Nam - những trận đánh quyết định”, Sđd, tr 122.
(8). Theo J.Pim-lốt trong cuốn “Việt Nam - những trận đánh quyết định”, Sđd, tr 104.

Chia sẻ bài viết