01/10/2025 - 08:06

Sau gần 5 năm triển khai Chương trình 1719: Từ thành quả đến khát vọng bứt phá 

Bài 2: Bản sắc văn hóa - nguồn lực mềm góp phần phát triển bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số

Từ Chương trình 1719(*), vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) đang hồi sinh những giá trị văn hóa độc đáo. Lễ hội, tiếng nói, chữ viết… không chỉ là bản sắc được gìn giữ, mà còn trở thành nguồn lực mềm, góp phần tạo sinh kế, phát triển lâu dài, bền vững.

 

Lễ hội dân tộc - sức hút ngày càng lan tỏa

Ở Nam Bộ có khoảng 1,3 triệu đồng bào dân tộc Khmer, chiếm 4,45% dân số toàn vùng. Đồng bào Khmer Nam Bộ kế thừa di sản văn hóa vô cùng quý giá, góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc của văn hóa Nam Bộ. Thượng tọa Lý Hùng, Trụ trì chùa Pitu Khôsa Răngsây, TP Cần Thơ, cho biết: Nét nổi bật về văn hóa vật chất của người Khmer là các ngôi chùa Phật giáo Nam tông, những ngọn tháp trong phum sóc với kiến trúc độc đáo và mô típ trang trí đặc thù. Về văn hóa tinh thần của đồng bào Khmer, tiếng nói và chữ viết được hình thành từ lâu đời, qua nhiều lần cải cách đến nay đã cơ bản hoàn chỉnh, đủ khả năng sử dụng trong hầu hết các lĩnh vực. Đặc biệt, đồng bào Khmer có nhiều lễ hội đặc sắc, gồm lễ hội truyền thống của dân tộc, lễ hội Phật giáo và lễ tục dân gian, được tổ chức theo mùa vụ, thời tiết gắn liền với nền văn hóa lúa nước.

Đua ghe Ngo ở Sóc Trăng. Ảnh: Lý Then

Với sự quan tâm đầu tư, nhất là từ Dự án 6: Bảo tồn phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các DTTS gắn với phát triển du lịch của Chương trình 1719, lễ hội của đồng bào Khmer ngày càng tăng sức hút và độ lan tỏa. Ông Nguyễn Văn Tuấn, du khách ở Hà Nội, cho biết: “Tôi rất thích đến ĐBSCL vào mùa lễ Sene Dolta để xem đua bò ở vùng Bảy Núi ở An Giang hoặc hòa mình vào không khí sôi động của lễ hội đua ghe Ngo ở Sóc Trăng nhân dịp Ok-Om-Bok... Tôi cũng thường đến những phum sóc Khmer để săn ảnh sinh hoạt đời thường của đồng bào, chiêm ngưỡng những ngôi chùa với họa tiết, hoa văn độc đáo, ấn tượng. Đặc biệt, tiếng nhạc ngũ âm; điệu múa Rom Vong, Saravan... để lại trong tôi dấu ấn sâu đậm”. Ông Trương Phol ở phường Sóc Trăng, TP Cần Thơ, chia sẻ: “Gần đây, khách du lịch đến Sóc Trăng không chỉ xem lễ hội mà còn ở lại, trải nghiệm đời sống phum sóc... Nhờ đó, bà con có thêm thu nhập từ bán hàng, dịch vụ…”.

Theo ông Lâm Hoàng Mẫu, Giám đốc Sở Dân tộc và Tôn giáo TP Cần Thơ, từ năm 2022 đến nay, thành phố đã triển khai nhiều hoạt động bảo tồn văn hóa trong vùng đồng bào DTTS: tổ chức 9 cuộc khảo sát, tư liệu hóa di sản; bảo tồn 5 lễ hội tiêu biểu; hỗ trợ 7 nghệ nhân dân tộc; mở 30 lớp tập huấn, 6 chương trình nghiên cứu, 8 câu lạc bộ văn hóa dân gian, 68 đội văn nghệ truyền thống. Thành phố còn trang bị 124 bộ thiết bị văn hóa - thể thao, xây dựng 16 thiết chế văn hóa - thể thao, đóng mới ghe Ngo, cấp dàn nhạc truyền thống cho đồng bào Khmer.

Giữ gìn hồn cốt dân tộc

Đồng bào dân tộc Khmer ở Nam Bộ có tiếng nói, chữ viết riêng. Nhiều địa phương trong vùng đã năng động, linh hoạt triển khai dạy chữ và tiếng Khmer. Đặc biệt, nhiều chùa Khmer mở các lớp dạy tiếng Khmer miễn phí cho con em đồng bào dân tộc vào dịp hè. Sư Thạch Hiền ở chùa Sêrây muni Săng Ke, xã Trường Khánh, TP Cần Thơ, cho biết: “Được đứng lớp dạy, sư rất vui vì không chỉ giúp con em Khmer biết đọc, viết tiếng mẹ đẻ mà còn góp phần giữ gìn tiếng nói và chữ viết của dân tộc. Ngoài dạy chữ Khmer, sư còn dạy những kỹ năng sống, phong tục tập quán truyền thống, cách chào hỏi, ứng xử trong gia đình và cộng đồng…”.


Nhạc ngũ âm được giữ gìn phát phát huy trong đồng bào Khmer. Trong ảnh: Trình diễn nhạc ngũ âm tại đám phước ở xã Tiểu Cần, tỉnh Vĩnh Long. Ảnh: Thanh Long

Thượng tọa Lý Hùng, Trụ trì chùa Pitu Khôsa Răngsây, chia sẻ: Đa số con em đồng bào dân tộc Khmer xuất thân từ phum sóc, ít sử dụng tiếng dân tộc trong đời sống hằng ngày. Từ nhỏ, các em sống trong gia đình, lớn lên đi học đều học tiếng Việt. Khi học chữ Khmer bắt đầu từ nguyên âm, phụ âm, dấu thậm chí có chữ Pali, chữ Sansakrit lẫn lộn, nên các em cũng gặp nhiều khó khăn. Dù vậy, phần lớn các em đều cố gắng học ngôn ngữ của đồng bào. “Con em đồng bào được học hành và sử dụng thành thạo tiếng nói, chữ viết của tổ tiên để lại, xứng đáng với vai trò chủ thể văn hóa của dân tộc mình. Đây chính là cách để giữ hồn dân tộc trong bối cảnh hội nhập” - sư Lý Hùng nói.

Việc bảo tồn văn hóa dân tộc, trong đó có chữ viết truyền thống, được xác định bắt đầu từ giáo dục. Trên cơ sở đó hướng đến mục tiêu nâng cao dân trí, bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc. Vì thế, việc phát triển giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng đồng bào DTTS cũng được đặc biệt quan tâm. Nhiều địa phương tích cực đưa tiếng dân tộc vào chương trình giảng dạy cho học sinh các cấp. Bản sắc văn hóa của đồng bào DTTS theo đó được giữ gìn và phát huy giá trị.

Theo Bộ Dân tộc và Tôn giáo, gần 5 năm qua, cả nước đã đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho 1.032 trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú; tổ chức 4.752 lớp xóa mù chữ với hơn 95.000 học viên. Các địa phương mở 924 lớp bồi dưỡng kiến thức dân tộc cho trên 56.000 học viên và 146 lớp bồi dưỡng tiếng dân tộc cho hơn 7.000 người. Ở bậc học cao hơn, có 843 sinh viên DTTS được hỗ trợ học đại học, 315 học viên học thạc sĩ, 18 nghiên cứu sinh làm tiến sĩ. Các ngành hữu quan đẩy mạnh giáo dục nghề nghiệp, giải quyết việc làm cho lao động vùng DTTS.

Từ Chương trình 1719, các trường dân tộc nội trú, bán trú được trang bị thiết bị hiện đại: ti vi thông minh, máy tính xách tay…, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học. Học sinh được hỗ trợ tiền ăn, chi phí học tập, thẻ bảo hiểm y tế... nên yên tâm học tập. Công tác phổ cập giáo dục, xóa mù chữ duy trì ổn định, nhận thức của đồng bào về vai trò của giáo dục ngày càng nâng cao, từng bước xóa bỏ tập tục lạc hậu. Cùng với đó, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người DTTS được quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS trong giai đoạn mới.

***

Những giá trị văn hóa khi gắn với phát triển kinh tế sẽ trở thành lợi thế cạnh tranh. Chính đồng bào DTTS là chủ thể, vừa giữ gìn bản sắc, vừa sáng tạo để văn hóa trở thành nguồn lực mềm phát triển bền vững. Đằng sau những đổi thay ấy là thành công của một quyết sách lịch sử lần đầu tiên gom hàng trăm chính sách dân tộc về chung một “mái nhà”. 

Trên phạm vi cả nước, gần 5 năm qua, Chương trình 1719 hỗ trợ đầu tư xây dựng, bảo tồn 48 làng, bản và 69 điểm đến du lịch tiêu biểu truyền thống của các DTTS. Có 4.409 nhà văn hóa, khu thể thao tại các thôn, bản vùng đồng bào DTTS và miền núi được đầu tư xây dựng và hỗ trợ trang thiết bị, tu bổ, tôn tạo; bảo tồn, phát huy 124 lễ hội truyền thống tiêu biểu của các DTTS; hỗ trợ hoạt động của 695 câu lạc bộ sinh hoạt văn hóa dân gian và 5.760 đội văn nghệ truyền thống tại các thôn, bản vùng đồng bào DTTS và miền núi. Nhiều địa phương tổ chức ngày hội văn hóa - thể thao - du lịch các dân tộc; khôi phục, bảo tồn những giá trị văn hóa có nguy cơ mai một.

(Còn tiếp)

LÊ HÀ LÝ

Bài 3: Quyết sách lịch sử 

 (*) Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025.

Chia sẻ bài viết