21/09/2010 - 20:41

Những quy định mới về quyền và lợi ích của người khuyết tật

Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Người khuyết tật (NKT) thay thế cho Pháp lệnh về NKT năm 1998. Luật NKT có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-1-2011. Theo đó, Luật này quy định như sau:

NKT là người thuộc một trong các dạng tật như: Khuyết tật vận động; khuyết tật nghe, nói; khuyết tật nhìn; khuyết tật thần kinh, tâm thần; khuyết tật trí tuệ... NKT được chia theo ba mức độ khuyết tật người khuyết tật nhẹ, người khuyết tật nặng và người khuyết tật đặc biệt nặng.

Luật NKT quy định những chính sách cơ bản, đảm bảo quyền và lợi ích cho NKT, để giúp đỡ và tạo điều kiện cho NKT xóa đi mặc cảm để hòa nhập cuộc sống. Cụ thể:

- NKT được hưởng các quyền: Đảm bảo tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội; sống độc lập, hòa nhập cộng đồng; được miễn hoặc giảm một số khoản đóng góp cho các hoạt động xã hội; được chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, học văn hóa, học nghề, việc làm, trợ giúp pháp lý, tiếp cận công trình công cộng, phương tiện giao thông, công nghệ thông tin, dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch và dịch vụ khác phù hợp với dạng tật và mức độ khuyết tật...

- Chính sách của Nhà nước về NKT: Bố trí ngân sách để thực hiện chính sách về NKT; phòng ngừa, giảm thiểu khuyết tật bẩm sinh, khuyết tật do tai nạn thương tích, bệnh tật và nguy cơ khác dẫn đến khuyết tật; bảo trợ xã hội; trợ giúp người khuyết tật trong chăm sóc sức khỏe, giáo dục, dạy nghề, việc làm, văn hóa, thể thao, giải trí, tiếp cận công trình công cộng và công nghệ thông tin, tham gia giao thông; ưu tiên thực hiện chính sách bảo trợ xã hội và hỗ trợ người khuyết tật là trẻ em, người cao tuổi; tạo điều kiện để người khuyết tật được chỉnh hình, phục hồi chức năng; khắc phục khó khăn, sống độc lập và hòa nhập cộng đồng...Ngoài ra, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tôn trọng, chăm sóc, giúp đỡ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho NKT.

- Trách nhiệm của gia đình đối với NKT: Thực hiện các biện pháp phòng ngừa, giảm thiểu khuyết tật bẩm sinh, khuyết tật do tai nạn thương tích, bệnh tật và nguy cơ khác dẫn đến khuyết tật; bảo vệ, nuôi dưỡng, chăm sóc NKT; tạo điều kiện để NKT được chăm sóc sức khỏe và thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình; tôn trọng ý kiến của NKT trong việc quyết định những vấn đề liên quan đến cuộc sống của bản thân NKT và gia đình...

Luật NKT còn quy định rõ những hành vi cần bị nghiêm cấm đối xử với NKT, gồm: Kỳ thị, phân biệt đối xử NKT; xâm phạm thân thể, nhân phẩm, danh dự, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp của NKT; lôi kéo, dụ dỗ hoặc ép buộc NKT thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, đạo đức xã hội; lợi dụng NKT, tổ chức của NKT, tổ chức vì NKT, hình ảnh, thông tin cá nhân, tình trạng của NKT để trục lợi hoặc thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; cản trở quyền kết hôn, quyền nuôi con của NKT; gian dối trong việc xác định mức độ khuyết tật, cấp giấy xác nhận khuyết tật...

NG.B (thực hiện)

Chia sẻ bài viết