Ngôn từ tiếng Việt rất phong phú, trau chuốt, mượt mà và nhiều từ mới xuất hiện cũng bắt đầu từ dân gian. Từ xưa những người lao động không những sáng tạo ra từ mới mà còn dùng các từ mới đó sao cho có vần, có điệu, có ý nghĩa... từ đó mà tạo nên những vần ca dao mượt mà, thấm đẫm chất trữ tình. Chẳng vậy mà nhà thơ Xuân Diệu đã có lần nói: các nhà thơ hãy học tập trong ca dao. Qua đó cho thấy, ngôn từ trong dân gian, mà nó được biểu hiện qua ca dao không phải không có những điều lý thú.
So với ca dao của các vùng miền khác, ca dao Nam bộ có một nét đặc trưng hết sức độc đáo, mà một trong những cái độc đáo đó là cách dùng từ. Về phương diện này, ta thấy có sự khu biệt rất rõ giữa ca dao Nam bộ và ca dao của các dùng miền khác. Người Nam bộ chuộng cách nói thẳng, nói thật, nên mang vào trong ca dao lời ăn tiếng nói hằng ngày của mình. Ngôn từ được sử dụng trong ca dao phần lớn là “bê nguyên xi” từ trong cuộc sống chứ ít dụng công gọt giũa bóng bẩy, cho êm ái. Vì vậy có rất nhiều câu ca dao ở Nam bộ đọc lên cảm thấy rất trúc trắc, “thô ráp” nhưng có sự ý vị, ngọt ngào ẩn chứa bên trong.
Khi nói về nỗi niềm đơn chiếc, trống vắng, cô đơn một mình, người dân Nam bộ đã mượn hình ảnh con cá, con tôm để nói lên sự có cặp, có đôi đối lập với sự cô đơn, vò võ một mình:
Ví dầu cá bống hai mang
Cá trê hai ngạnh, tôm càng hai râu
Anh về bên ấy đã lâu
Để em vò võ canh thâu một mình.
Quả là hay về ý, đẹp về vần. Không cần những từ ngữ bóng bẩy, những lời hoa mỹ đẩy đưa cũng nói lên tâm trạng của người con gái chờ đợi nhớ thương người yêu.
Hay một chàng trai buồn mẹ mình quá khó khăn bằng cách mượn những khẩu ngữ hằng ngày của người Nam bộ:
Gió đưa bụi chuối tùm lum
Mẹ dữ như hùm ai dám làm dâu.
“Tùm lum”, “tà la” là những từ rặt Nam bộ không lẫn vào đâu được. Nó là từ láy rất đặc trưng Nam bộ cũng như: te rẹt, tét lét, tèm lem... Tất cả những từ này rất khó tạo vần để thành thơ, thế mà dân gian Nam bộ đã làm được, mà làm hay nữa chứ.
Để chỉ hình ảnh trai gái chọc ghẹo nhau, dân gian Nam bộ cũng sẵn sàng dùng những từ rất ư là bình dân để chỉ hình ảnh này:
Con chi rột rẹt sau hè
Hay là rắn mối tới ve chuột chù.
Để nói lên việc vụng trộm của các đấng ông chồng khi cuộc sống đã có phần ổn định thì:
Đói cơm lạt mắm tèm hem
No cơm ấm áo lại thèm nọ kia.
Từ “tèm hem” ở đây được dùng rất đắc địa. Cái phép dụng vần cho thơ không phải cốt để đọc nghe trơn tru, mà cao hơn, nó phải tham gia thể hiện chiều sâu của ý, phải góp phần tạo hình tượng cho thơ.
Còn đây, từ “thắt thẻo” được dùng trong câu ca dao này làm cho người đọc cảm thấy buồn đến đứt ruột, đứt gan:
Gió mùa đông trăng lồng lạnh lẽo
Năm canh chày thắt thẻo ruột gan.
Đâu chỉ là sự gieo vần thuần túy. Sự góp mặt của nó đem đến cho ta nỗi cô quạnh, lạnh lẽo, tê buốt trong lòng. Chỉ một từ thôi mà câu thơ như sắp òa khóc, như ướt đẫm nước mắt đêm trường.
Ta thấy, lối gieo vần trong ca dao Nam bộ quả là biến hóa linh hoạt, nhưng rất gần gũi với đời thường.
Người Nam bộ cũng sử dụng những từ ngữ đã vay mượn từ các dân tộc cùng cộng cư để đưa vào ca dao làm cho nó trở nên phong phú hơn, đa dạng hơn, và đẹp hơn. Đặc biệt là sự ghép đôi giữa một tiếng Việt với một tiếng Hoa đã làm cho câu ca dao trở nên độc đáo và hay đến lạ thường:
Gió đưa chú tửng từng tưng
Gặp chị bán gừng na nả nị ơi.
Câu đầu của câu ca dao được hiểu là ngọn gió khởi lên sự vui vẻ từ lòng người chú Tiều (Từng Náng) khi gặp gỡ cô gái “Nị” là đại từ ngôi thứ hai theo âm Quảng Đông, “na” là chỉ phụ nữ tương tự như cuối câu tường thuật của tiếng Việt dùng từ: đấy, nhé... Câu ca dao nói lên hồn Việt, hồn Hoa hòa quyện vào nhau, chú, tửng, chị, nị... chứa chan tình cảm phơi phới thông qua từ láy “tửng từng tưng”, “na nả nị” quả là thần tình!
Chờ đợi là một nghệ thuật kỳ diệu! Câu ca chỉ là cách tỏ tình, giãi bày nỗi niềm. Nỗi nhớ trong đêm khắc khoải cũng nói lên lòng thủy chung đợi chờ người tình. Cánh đồng thì mênh mông, trại ấp thì thưa thớt người của đất Ngồ Ố, Láng Dài nói lên sự xa cách của đôi lứa:
Chim kêu Ngồ Ố, Láng Dài
A hia xùa bố a mùi ùm chai.
Hia: anh. Mùi: em. Xùa bố: thú thê (cưới vợ). Ùm chai: không hay biết. Câu ca diễn đạt lời Việt là:
Chim kêu Ngồ Ố, Láng Dài
Anh cưới vợ rồi em chẳng được hay!
Cho nên đã yêu là phải chủ động, là phải hành động “tam tứ núi cũng trèo”.
- Nào khi ến thạo hoang tùa
Sùng hoang, nghệch láo xuất quà thăm em.
- Trời mưa dít tạm hoang tùa
A hia phề chú xuất quà thăm em.
Ến thạo: Lãng thao (sóng cả). Hoang tùa: phong đại (gió lớn). Sùng: thuận. Sùng hoang: thuận phong (tức thuận gió). Nghệch láo: nghịch trào (nói nước ngược). Xuất quà (đi ra khỏi nhà). Đang lúc gặp khó: sóng cả, gió lớn, nước ngược ra khỏi nhà biết giương cánh buồm lựa theo chiều gió để đến được nhà người yêu.
Bên cạnh hiện tượng hòa hợp ngôn ngữ trong ca dao, ở Nam bộ còn có những câu ca dao được cải biên từ một câu ca dao của người Việt bằng một yếu tố Hoa, trở thành một câu ca dao có đủ hai yếu tố Hoa - Việt rất ngộ nghĩnh và độc đáo:
Ta về ta “xực” cơm ta
Dầu hơi quá lửa cơm nhà vẫn hơn.
“Xực”, tiếng Quảng Đông có nghĩa là ăn. Như vậy câu ca dao thuần Việt là:
Ta về ta ăn cơm ta
Dầu hơi quá lửa cơm nhà vẫn hơn.
Bên cạnh đó, ca dao Nam bộ cũng sử dụng đáng kể một lượng lớn các từ Hán -Việt , làm cho những vần ca dao ở đây trở nên thanh thoát, mượt mà, trau chuốt và sang trọng vô cùng.
- Anh gặp em vừa mừng vừa hỏi
Phụ mẫu ở nhà có mạnh giỏi hay không?
- Tại gia đàng phụ mẫu em cũng được bình an
Em xin hỏi lại phụ mẫu của bạn lang thế nào?
Từ Hán -Việt xuất hiện nhiều trong ca dao Nam bộ đã làm cho ca dao Nam bộ bớt đi phần nào “nôm na”, làm tăng vẻ trang trọng về mặt hình thức hơn:
Cây gie bần ngã
Bất khả viển vông
Tới đây em nói cho anh vừa lòng
Em đây có chốn loan phòng từ lâu.
Từ Hán - Việt đã làm phong phú thêm ngôn ngữ của tình yêu đôi lứa, làm cho tình yêu đôi lứa thêm đẹp hơn và thiêng liêng hơn:
Thương thay chín chữ cù lao
Tam niên nhủ bộ biết bao nhiêu tình.
Khi muốn thể hiện những trách móc, giận hờn trong tình yêu, các tác giả dân gian Nam bộ đã mượn từ Hán- Việt để cho lời trách móc đó trở nên ý vị hơn, sâu sắc hơn, không lộ liễu mà lại bộc lộ được niềm tiếc nuối, xót xa cho sự nhầm lẫn của người yêu:
Bình tích thủy đựng bông hoa lý
Chén chung vàng đựng nhụy bông ngân
Trách ai làm trai hữu nhãn vô châu
Chim oanh không bắn, bắn con sâu đậu nhành tùng.
Từ Hán - Việt trong ca dao Nam bộ còn tỏ ra khá đắc dụng khi khắc họa tâm trạng, tình cảm phức tạp của tình yêu đôi lứa:
Mưa sa, lác đác, gió táp lạnh lùng
Thấy em lao khổ anh mũi lòng nhớ thương
Đường đi biết mấy dặm trường
Hỏi em đã kết cang thường đâu chưa?
Và lời đáp của cô gái cũng là một lời hẹn ước:
Ngọc trầm thủy thượng anh ơi
Bách niên giai ngẫu ở đời với em.
* * *
Qua việc khảo sát một số ca dao Nam bộ trên, ta thấy từ Hán - Việt xuất hiện khá nhiều. Thực chất, ca dao nói chung, ca dao Nam bộ nói riêng, bên cạnh số do tầng lớp nhân dân lao động sáng tác, còn có các ông đồ Nho, những người đã qua “cửa Khổng sân Trình” tham gia vào đặt lời cho ca dao nữa.
Tại sao Nam bộ là vùng đất mới, là nơi sớm giao lưu với văn hóa phương Tây mà lại bảo tồn được những “vốn cổ” này? Trở lại vấn đề lịch sử: Ngay từ buổi đầu khai phá, vùng đất Nam bộ đã là nơi cộng cư của các dân tộc Việt, Hoa, Khmer, Chăm anh em. Chính sự cộng cư này đã làm cho các dân tộc có sự giao lưu với nhau về mặt văn hóa. Vì vậy, yếu tố văn hóa Hoa đã để lại nhiều ảnh hưởng trong các loại hình văn hóa ngôn từ trong đó có ca dao là điều dễ hiểu. Chữ quốc ngữ xuất hiện sớm ở Nam bộ đã tạo điều kiện thuận lợi cho người Nam bộ tiếp xúc với các tác phẩm văn học sử của Trung Quốc, như: Thủy Hử, Tam quốc, Đông Chu liệt quốc... Sự tiếp xúc này đã để lại ấn tượng mạnh mẽ trong họ về ngôn ngữ, về nhân vật... Và khi sáng tác ca dao, các tác giả bình dân đã vận dụng ngôn ngữ và điển tích vào các câu ca quen thuộc hằng ngày.
Trong kho tàng ca dao Nam bộ, nét chính vẫn là sự mộc mạc, giản dị nhưng có một bộ phận không nhỏ những từ Hán Việt được đưa vào làm cho cách thể hiện tình cảm của các tác giả dân gian thêm trang trọng, hàm súc, ý vị và thâm trầm làm cho ca dao bay bổng và có một đời sống lâu dài.
Trần Quang Diệu