Chiều 15-1, phiên tòa xét xử bị cáo Trịnh Xuân Thanh (nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng Công ty cổ phần xây lắp dầu khí Việt Nam – PVC) và đồng phạm được tiếp tục với phần đối đáp giữa đại diện Viện Kiểm sát và các luật sư. Trên cơ sở diễn biến thực tế tại phần thẩm vấn và tranh luận tại tòa, Viện Kiểm sát đã đưa ra các cơ sở buộc tội, phân tích chứng cứ lời khai và chứng cứ vật chất, qua đó kết luận có căn cứ xác định bị cáo Trịnh Xuân Thanh phạm tội “Tham ô tài sản”.
Bị cáo Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm tại phiên tòa (chiều 15-1-2018). Ảnh: AN ĐĂNG -TTXVN
Đối đáp nhằm làm rõ hành vi tham ô tài sản của các bị cáo, đại diện Viện Kiểm sát cho biết, đã có 9/10 bị cáo trong nhóm tội “Tham ô tài sản” nhận tội, thừa nhận việc bị truy tố về tội tham ô tài sản là có căn cứ, đúng pháp luật. Chỉ riêng bị cáo Trịnh Xuân Thanh là không nhận tội.
Một số luật sư bào chữa cho Trịnh Xuân Thanh và bản thân bị cáo Trịnh Xuân Thanh cũng cho rằng, bị cáo Trịnh Xuân Thanh không phạm tội tham ô tài sản, có chăng chỉ là hành vi thiếu trách nhiệm, gắn với trách nhiệm của người đứng đầu. Các luật sư cho rằng, không có chứng cứ xác định bị cáo Thanh chủ mưu, chỉ đạo cấp dưới tham ô tài sản; chứng cứ xác định bị cáo Trịnh Xuân Thanh chiếm hưởng 4 tỉ đồng không đảm bảo căn cứ vững chắc. Nếu có việc lái xe Nguyễn Đặng Toàn (lái xe của Trịnh Xuân Thanh) đưa cho bị cáo Trịnh Xuân Thanh một túi đồ thì không thể coi đó là túi tiền; bị cáo Trịnh Xuân Thanh không thể nhận túi đồ do Nguyễn Đặng Toàn đưa cho trong khoảng 15 giờ ngày 13-1-2012 vì 16 giờ chiều hôm đó bị cáo Trịnh Xuân Thanh có chuyến bay từ Hà Nội vào thành phố Hồ Chí Minh. Việc quy trách nhiệm bị cáo Trịnh Xuân Thanh cùng với các bị cáo Vũ Đức Thuận (nguyên Tổng Giám đốc PVC), Nguyễn Anh Minh (nguyên Phó Tổng Giám đốc PVC), Bùi Mạnh Hiển (nguyên Chánh Văn phòng PVC) phải chịu trách nhiệm chung số tiền 1,5 tỉ đồng là không đủ cơ sở, thậm chí các luật sư còn nghi ngờ có sự sắp đặt đổ tội cho bị cáo Trịnh Xuân Thanh…
Về nội dung này, đại diện Viện Kiểm sát đã đưa ra những chứng cứ lời khai và chứng cứ vật chất, cũng như quan điểm đánh giá chứng cứ để làm rõ hành vi tham ô tài sản của bị cáo Trịnh Xuân Thanh.
Cụ thể, các bị cáo Vũ Đức Thuận, Nguyễn Anh Minh, Bùi Mạnh Hiển đều khai nhận Trịnh Xuân Thanh và Vũ Đức Thuận trao đổi thống nhất chủ trương yêu cầu các đơn vị trực thuộc, các đơn vị thành viên lo nguồn tiền (được hợp thức bằng hồ sơ, chứng từ khống) chuyển về Văn phòng PVC thông qua đầu mối đôn đốc tiếp nhận, quản lý là bị cáo Hiển. Chủ trương này được nhắc lại trong một số cuộc họp giao ban có sự tham gia và đồng chủ trì cuộc họp của bị cáo Thanh, bị cáo Thuận.
Khai tại tòa, các bị cáo Lương Văn Hòa (nguyên Giám đốc Ban điều hành Dự án Vũng Áng – Quảng Trạch), Nguyễn Anh Minh, Vũ ĐứcThuận, Bùi Mạnh Hiển tiếp tục khẳng định bị cáo Trịnh Xuân Thanh là người đề ra chủ trương lập quỹ đối nội, đối ngoại.
Quá trình thực hiện chủ trương trên, thời gian đầu tháng 1-2012, để có tiền sử dụng cá nhân trong dịp Tết Nguyên đán năm 2012, ngay tại phòng làm việc của bị cáo Thanh cùng với sự có mặt của bị cáo Thuận, bị cáo Thanh đã trực tiếp chỉ đạo Nguyễn Anh Minh yêu cầu Lương Văn Hòa lo 5 tỉ đồng để Thanh sử dụng trong dịp Tết.
Sau khi Nguyễn Anh Minh, Lương Văn Hòa và các đồng phạm đã hợp thức hồ sơ khống để rút và chiếm đoạt tiền, khoảng tháng 8-2013, phát hiện đối với hạng mục xây dựng tại Dự án Quảng Trạch đòi hỏi phải có quyết định phê duyệt chủ trương của Hội đồng quản trị, bị cáo Nguyễn Anh Minh đã chỉ đạo các ban chuyên môn lập tiếp các thủ tục phê duyệt chủ trương bằng việc xây dựng tờ trình để Nguyễn Anh Minh ký, xin ý kiến Hội đồng quản trị.
Nguyễn Anh Minh đã trực tiếp cầm phiếu lấy ý kiến Hội đồng quản trị số 1034/HĐQT-XLDK ngày 14-12-2011 gặp Trịnh Xuân Thanh và Trịnh Xuân Thanh đã cho ý kiến “đồng ý”. Tương tự, bị cáo Vũ Đức Thuận cũng cho ý kiến “đồng ý” vào phiếu này. Cơ quan điều tra đã xác minh tại PVC, qua kiểm tra, rà soát trên hệ thống lưu trữ văn bản điện tử của PVC không thấy thể hiện có phiếu lấy ý kiến trên hệ thống. Các bị cáo Nguyễn Anh Minh, Lương Văn Hòa và Hưng đều khai việc xin ý kiến phê duyệt chủ trương trên đã được diễn ra vào khoảng tháng 7, 8-2013.
Điều đó chứng minh các bị cáo Trịnh Xuân Thanh và Vũ Đức Thuận không chỉ chủ mưu, đề ra chủ trương mà còn nhận thức rõ Nguyễn Anh Minh, Lương Văn Hòa và các đồng phạm muốn chiếm đoạt được tài sản thì phải hợp thức hồ sơ, chứng từ, thậm chí hai bị cáo đã trực tiếp tham gia vào việc hợp thức thủ tục với ý định hoàn tất các thủ tục, chứng từ cho việc chiếm đoạt tài sản. Theo Viện Kiểm sát, đây chính là những chứng cứ vật chất, nhưng các luật sư đã không quan tâm đánh giá đầy đủ khi phân tích luận điểm của mình.
Đối với hành vi tham ô số tiền 4 tỉ đồng, đại diện Viện Kiểm sát khẳng định, mặc dù các luật sư cho rằng lời khai của các lái xe Nguyễn Đặng Toàn và Nguyễn Văn Kế (lái xe của Nguyễn Anh Minh), lời khai của bị cáo Lương Văn Hòa, Nguyễn Anh Minh, còn có nhiều mâu thuẫn về mặt thời gian. Thêm vào đó, vụ án đã xảy ra cách đây khá lâu (6 năm), việc khám phá thông qua truy xét, thẩm vấn các nhân chứng do các mối liên hệ gần gũi giữa các bị cáo và gia đình của họ, nên đã né tránh hoặc sợ bị liên lụy. Tuy nhiên, theo đại diện Viện Kiểm sát, những chứng cứ đã nêu rõ ràng có sự liên kết, logic với nhau, kết hợp giữa chứng cứ lời khai và chứng cứ vật chất, có đủ căn cứ xác định bị cáo Thanh là người đề ra chủ trương, cùng Vũ Đức Thuận chỉ đạo cấp dưới hợp thức hồ sơ, chứng từ nhằm chiếm đoạt tài sản, để bị cáo Thanh và bị cáo Thuận quyết định việc sử dụng. Trong đó, bị cáo Trịnh Xuân Thanh đã nhận và chiếm hưởng số tiền 4 tỉ đồng như đã phân tích ở trên.
Ngày 16-1, phiên tòa tiếp tục với phần đối đáp giữa đại diện Viện Kiểm sát và các luật sư.
“Lợi ích nhóm” thể hiện rõ trong sai phạm của các bị cáo
Trước đó, sáng 15-1, trong phần tranh tụng công khai, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa đã tham gia đối đáp với các luận điểm gỡ tội của các luật sư bào chữa.
Theo đó, qua phân tích, đại diện Viện Kiểm sát cho rằng Tổng Công ty Cổ phần xây lắp dầu khí Việt Nam (PVC) không đủ năng lực làm tổng thầu EPC. Cụ thể, tình hình tài chính của PVC yếu kém, không lành mạnh. Về năng lực kinh nghiệm, theo Viện Kiểm sát, PVC không đáp ứng kinh nghiệm thực hiện hợp đồng tương tự của nhà thầu (được thực hiện với tư cách là nhà thầu chính hoặc nhà thầu phụ trong vòng 5 năm trở lại) theo yêu cầu của Hồ sơ yêu cầu. Đại diện Viện Kiểm sát đã chỉ ra hệ lụy từ việc không có năng lực tổng thầu là rất lớn, đó là việc dự án thi công kéo dài gấp đôi, nếu phạt Hợp đồng EPC sẽ lên tới hàng trăm triệu USD, bản thân PVC cũng chịu chi phí phát sinh rất lớn.
Cũng theo đại diện Viện Kiểm sát, mặc dù biết rõ PVC đang gặp khó khăn về tài chính, không đủ năng lực cũng như kinh nghiệm thực hiện thi công dự án Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2, để tạo điều kiện cho PVC, Đinh La Thăng vẫn ưu ái bỏ qua các quy định của pháp luật để chỉ định PVC làm tổng thầu, sau đó chỉ đạo các bị cáo tại PVN và các đối tượng liên quan tại Tổng Công ty Điện lực dầu khí Việt Nam (PVPower) ký hợp đồng EPC và tạm ứng tiền cho PVC để bị cáo Thanh và các đồng phạm tại PVC sử dụng trái mục đích gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước. Qua đó cho thấy rõ mối quan hệ mang tính lợi ích nhóm của các bị cáo.
Dựa trên thực tế quá trình thẩm vấn và tranh luận công khai tại phiên tòa, Viện Kiểm sát đã có bổ sung và thay đổi một số quan điểm luận tội, phù hợp với diễn biến phiên tòa và lời khai của các bị cáo.
Cụ thể, theo Viện Kiểm sát, đối với bị cáo Bùi Mạnh Hiển (nguyên Chánh Văn phòng PVC), quá trình điều tra và tại phiên tòa ngoài các tình tiết giảm nhẹ được nêu trong luận tội của Viện Kiểm sát, bị cáo Hiển còn có tình tiết giảm nhẹ là tích cực hợp tác với cơ quan pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án. Bị cáo Lê Đình Mậu (nguyên Phó Trưởng Ban Tài chính kế toán và kiểm toán PVN) vai trò phạm tội có mức độ; bị cáo Lương Văn Hòa (nguyên Giám đốc Ban điều hành Dự án Vũng Áng – Quảng Trạch) và Phạm Tiến Đạt (nguyên Kế toán trưởng PVC) có nhiều tình tiết giảm nhẹ, đặc biệt là thái độ tích cực hợp tác với cơ quan pháp luật giải quyết sớm vụ án. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử giảm hình phạt cho các bị cáo so với mức đề nghị trước đó của Viện Kiểm sát.
Đối với bị cáo Nguyễn Ngọc Quý (nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Quản trị PVC), đại diện Viện Kiểm sát cũng đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc, xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Về trách nhiệm dân sự, đại diện Viện Kiểm sát đã đề nghị Hội đồng xét xử không buộc các bị cáo Nguyễn Ngọc Quý, Lê Đình Mậu, Nguyễn Mạnh Tiến (nguyên Phó Tổng Giám đốc PVC), Phạm Tiến Đạt phải liên đới bồi thường số tiền thiệt hại 119.804.660.196 đồng.
Còn các vấn đề khác, Viện Kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm như đã đề cập trong phần luận tội.
|
KIM ANH - NGUYỄN CÚC (TTXVN)