MAI QUYÊN (Theo ABC News)
Một bộ phận người trẻ Trung Quốc đang hoài nghi về tương lai và đặt câu hỏi, rằng liệu tấm bằng đại học của mình có trở nên “lãng phí” hay không trong bối cảnh tỷ lệ thất nghiệp ở nước này đang ở mức cao kỷ lục.
Nhiều người trẻ Trung Quốc tốt nghiệp đại học vẫn không tìm được việc làm. Ảnh: Getty Images
Tốt nghiệp đại học cách đây 2 năm với tấm bằng cử nhân chuyên ngành quản trị kinh doanh, Tony Bie cho biết mình vẫn sống cùng bố mẹ vì chưa thể tìm được việc. “Ðôi khi tôi tự hỏi tại sao mình lại học đại học. Nếu tôi đi làm ngay khi tốt nghiệp trung học, có lẽ bây giờ đã là quản lý” - thanh niên 23 tuổi cho biết.
Chung hoàn cảnh, Tina Li cũng sống cùng bố mẹ gần 2 năm sau khi tốt nghiệp đại học về nghiên cứu truyền thông. Theo Li, việc học đại học không mang lại cho bản thân nhiều lợi thế so với những người có kỹ năng. “Vì tôi thiếu kinh nghiệm và bây giờ hơi hối hận, sau tất cả, tìm được công việc thực sự không dễ dàng” - cô gái 24 tuổi cảm thán.
Tony Bie hay Tina Li là hai trong khoảng 30 triệu thanh niên thất nghiệp ở Trung Quốc. Theo dữ liệu Cục Thống kê Quốc gia công bố tuần này, tình hình đang trở nên tồi tệ hơn bất chấp việc Bắc Kinh từ đầu năm nay đã loại bỏ chính sách “zero COVID”. So với tỷ lệ thanh niên thất nghiệp ở Mỹ (7,5%) và Úc (7,8%) vào tháng 3, con số này ở Trung Quốc hiện lên tới 19,5%.
Thách thức cho sinh viên tốt nghiệp đại học
Tao Yu, giảng viên cao cấp của Ðại học Tây Úc, cho biết giới trẻ Trung Quốc tin nền tảng giáo dục tốt giúp họ kiếm được công việc lương cao ở các thành phố lớn. Song, khó khăn của nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới, chủ yếu do tác động của chính sách “zero COVID” khiến thị trường việc làm bị thu hẹp. Ðiều này đang xảy ra với cả những sinh viên tốt nghiệp các cấp bậc cao như đại học, cao đẳng. Theo dữ liệu từ Bộ Giáo dục Trung Quốc, có hơn 10 triệu sinh viên tốt nghiệp đại học năm 2022 và dự kiến có thêm 11,6 triệu người trong năm nay.
Bên cạnh tình trạng có ít việc làm hơn cho sinh viên, việc Trung Quốc mạnh tay “chấn chỉnh” lĩnh vực công nghệ, giáo dục và bất động sản cũng đang gây áp lực lên thị trường lao động khi nhiều doanh nghiệp bắt đầu sa thải lượng lớn nhân viên trẻ. Là một trong số các “nạn nhân”, Alan Rong cho biết anh làm việc cho một nhà phát triển bất động sản ở tỉnh Sơn Ðông trước khi bất ngờ bị sa thải vào tháng 2. Chàng trai 26 tuổi, có bằng quản lý kỹ thuật, đang sống dựa vào tiền trợ cấp thất nghiệp do không tìm được việc mới. “Cha mẹ tôi đôi khi nói rằng những người không học đại học làm tại các công trường xây dựng có thể kiếm được hơn 2.000 USD/tháng. Họ thắc mắc tại sao tôi thậm chí không thể tìm được một công việc tốt” - anh Rong bất lực chia sẻ.
Giáo sư Hans Hendrischke của Ðại học Sydney (Úc) cho biết, tác động của chính sách “zero COVID” đối với khu vực tư nhân và những người trẻ tuổi là rất đáng kể. “Nó ảnh hưởng đến giới trẻ Trung Quốc, những người đang cố gắng tìm kiếm vị trí trong xã hội và quan sát của tôi là thực sự không có giải pháp ngắn hạn nào” - Giáo sư Hendrischke nói. Theo ABC News, một số thanh niên Trung Quốc đang chọn lập gian hàng ở chợ đêm để giải quyết vấn đề thu nhập. Số khác dựa vào hỗ trợ của gia đình, bởi không có khoản trợ cấp công nào dành cho thanh niên thất nghiệp ở Trung Quốc.
Vào thời điểm toàn cầu đang chịu cảnh lạm phát cao, nền kinh tế Trung Quốc không là ngoại lệ. Khó khăn này cùng với tình trạng thất nghiệp kéo dài khiến nhiều thanh thiếu niên Trung Quốc tìm đến mạng xã hội để giải tỏa bức xúc. Tuy nhiên, các kênh truyền thông trong nước chỉ trích giới trẻ không đủ chăm chỉ; đặc biệt yêu cầu những sinh viên trẻ mới tốt nghiệp đại học nên hạ thấp kỳ vọng, chấp nhận các công việc lao động phổ thông hoặc làm nông. Ðiều này khiến nhiều người cảm thấy ngoài không có việc làm, họ còn bị cô lập khỏi xã hội.
Trong đánh giá chung, Giáo sư Hendrischke cho biết hệ thống giáo dục của Trung Quốc vẫn chú trọng khá nhiều vào giáo dục phổ thông so với xu hướng ở Úc và nhiều quốc gia phương Tây khác tập trung hỗ trợ nâng cao trình độ kỹ năng cho sinh viên tốt nghiệp. “Ðó là điều mà hệ thống giáo dục Trung Quốc cần phải cải cách, nhưng sẽ cần thời gian để tạo ra sự thay đổi đó” - Giáo sư Hendrischke nhận xét.