27/11/2025 - 18:14

Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Cần Thơ thảo luận tại Hội trường về Dự án Luật Đầu tư (sửa đổi) 

Sáng  27-11-2025, tiếp tục Chương trình làm việc tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, Quốc hội đã tiến hành thảo luận tại Hội trường về dự án Luật Đầu tư (sửa đổi). Các vị đại biểu Quốc hội thuộc Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Cần Thơ gồm: đại biểu Đào Chí Nghĩa - Phó Trưởng đoàn chuyên trách và đại biểu Tô Ái Vang - Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố tham gia một số ý kiến đối với dự thảo Luật Đầu tư (sửa đổi).

Về sự cần thiết, ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư và đầu tư thành lập tổ chức kinh tế của nhà đầu tư nước ngoài

Trong phần trình bày thảo luận của mình, đại biểu Đào Chí Nghĩa bày tỏ thống nhất cao với sự cần thiết ban hành Luật Đầu tư (sửa đổi) để kịp thời thể chế hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 50-NQ/TW về định hướng thu hút các dự án FDI có chọn lọc và Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân. Theo đại biểu, dự thảo Luật đã thể hiện bước tiến lớn, chuyển mạnh từ mô hình "quản lý" sang "kiến tạo phát triển", với những cải cách đột phá như phân cấp triệt để thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư  và đơn giản hóa thủ tục đầu tư ra nước ngoài. Đây là cơ sở pháp lý vững chắc để Việt Nam nâng cao sức cạnh tranh và thu hút đầu tư chất lượng, đặc biệt vào các lĩnh vực công nghệ cao, kinh tế xanh, và chuyển đổi số.

Về ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện (Điều 7), Ban soạn thảo đã nỗ lực lớn khi loại bỏ 25 ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. Tuy nhiên, đối với một số ngành nghề đã bị bãi bỏ, cần bổ sung cơ chế kiểm soát tối thiểu về chất lượng và chuyên môn. Tại khoản 6, Điều 7 (ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện) quy định các hình thức áp dụng điều kiện, nhưng thiếu hình thức quản lý bằng chứng chỉ hành nghề bắt buộc đối với các ngành nghề có tính chuyên môn cao đã bãi bỏ khỏi Phụ lục IV. Các dịch vụ này liên quan trực tiếp đến việc tuân thủ nghĩa vụ tài chính và minh bạch thị trường. Việc bãi bỏ mà không có cơ chế hậu kiểm về chuyên môn rõ ràng có thể dẫn đến rủi ro chất lượng dịch vụ kém, gây phương hại đến lợi ích công cộng và tạo gánh nặng cho cơ quan quản lý thuế. Việc chuyển từ tiền kiểm hành chính sang hậu kiểm chuyên môn là phù hợp với Điều 33 Hiến pháp về Quyền tự do kinh doanh và nguyên tắc quản lý bằng tiêu chuẩn. Đại biểu đề nghị điều chỉnh khoản 6, Điều 7 (ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện) như sau: Sửa đổi điểm đ Khoản 6: "đ) Các yêu cầu khác mà cá nhân, tổ chức kinh tế phải đáp ứng để thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh mà không cần phải có xác nhận bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền, bao gồm các quy định về chứng chỉ hành nghề bắt buộc đối với cá nhân tham gia vào các ngành nghề có tính chuyên môn cao được Chính phủ quy định chi tiết."

Đại biểu Đào Chí Nghĩa, Phó trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội Cần Thơ phát biểu

Về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư (Điều 14), Đại biểu cho rằng chính sách ưu đãi đang định hướng vào các mục tiêu chiến lược (Công nghệ cao, Kinh tế xanh), nhưng thiếu cơ chế giám sát hiệu quả dựa trên kết quả thực tế. Tại khoản 8, Điều 15 (Ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư) quy định: Ưu đãi đầu tư được áp dụng có thời hạn và trên cơ sở kết quả thực hiện dự án của nhà đầu tư. Việc thiếu chỉ số định lượng rõ ràng để đo lường "kết quả thực hiện dự án" (giá trị gia tăng, công nghệ sạch, mức độ lan tỏa) và thiếu cơ chế thu hồi ưu đãi dẫn đến nguy cơ lãng phí nguồn lực ưu đãi của Nhà nước. Do đó, đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung các quy định cụ thể hơn về cơ chế hậu kiểm và bồi hoàn, nội dung này đã được Chính phủ đề cập trong báo cáo giải trình, đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả của chính sách ưu đãi.

Đại biểu đề nghị tại Điều 14 (Ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư), bổ sung thêm 1 khoản vào sau khoản 8, cụ thể như sau: "Ưu đãi đầu tư được áp dụng theo nguyên tắc dựa trên các chỉ số định lượng về chất lượng, hiệu quả đầu tư, giá trị gia tăng, công nghệ, và mức độ lan tỏa của dự án. Chính phủ quy định chi tiết các chỉ số này và cơ chế thu hồi ưu đãi hoặc bồi hoàn hỗ trợ đã hưởng nếu nhà đầu tư không đạt các cam kết định lượng đã đặt ra khi chấp thuận chủ trương đầu tư hoặc cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư."

Về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế của Nhà đầu tư nước ngoài (Điều 19), chính sách cho phép nhà đầu tư nước ngoài thành lập doanh nghiệp trước khi có giấy chứng nhận đăng ký đầu tư là phù hợp với nguyên tắc bình đẳng, nhưng cần có cơ chế hậu kiểm giới hạn phạm vi hoạt động ban đầu. Tại khoản 2, Điều 19 (Đầu tư thành lập tổ chức kinh tế) quy định: “Nhà đầu tư nước ngoài được thành lập tổ chức kinh tế thực hiện dự án đầu tư trước khi thực hiện thủ tục cấp, điều chỉnh Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư  và phải đáp ứng điều kiện tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài quy định tại điều 8 của Luật này khi thực hiện thủ tục thành lập tổ chức kinh tế”. Đại biểu đề nghị điều chỉnh Điều 20 (Đầu tư thành lập tổ chức kinh tế): Bổ sung khoản 2a mới vào sau khoản 2 như sau: "Tổ chức kinh tế do nhà đầu tư nước ngoài thành lập theo quy định tại khoản 2 Điều này chỉ được thay đổi, bổ sung ngành, nghề đầu tư kinh doanh khác so với ngành, nghề đã đăng ký tại thời điểm thành lập sau khi đã được cấp ít nhất một Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư theo quy định của Luật này."

Về chính sách về đầu tư kinh doanh, ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư và quỹ hỗ trợ đầu tư  

Đại biểu Quốc hội Tô Ái Vang tham gia đóng góp 4 ý kiến:

Về chính sách về đầu tư kinh doanh tại Điều 5, theo đại biểu dự thảo Luật xem xét, bổ sung điều khoản riêng quy định về chính sách hỗ trợ và ưu đãi đầu tư đối với doanh nghiệp liên kết, trong đó xác định rõ các hình thức hỗ trợ về: tài chính, tiếp cận vốn, thuế (nếu phù hợp với cam kết quốc tế), đất đai, hạ tầng kỹ thuật, thông tin, xúc tiến thương mại, và tư vấn pháp lý. Tạo cơ chế vượt trội làm động lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, hộ kinh doanh, hợp tác xã - nhóm chiếm tỷ lệ lớn trong nền kinh tế, có cơ hội tiếp cận các nguồn hỗ trợ và tham gia vào các chuỗi giá trị lớn hơn; thúc đẩy sự phát triển bền vững và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; đồng thời, tạo sức chống chịu trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đặc biệt là, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu có nhiều biến động.

Đại biểu Tô Ái Vang, Phó trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội Cần Thơ phát biểu

Về ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư tại Điều 15, đại biểu cho rằng ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư có thể được xem là biện pháp “mồi”, nhằm tạo lập, thu hút nhà đầu tư, trong một giai đoạn nhất định. Sau một thời gian, nếu lĩnh vực, địa bàn đó đã có làn sóng đầu tư tốt thì cần giảm bớt chính sách ưu đãi; còn nếu lĩnh vực, địa bàn đó không có nhiều nhà đầu tư thì tức là chính sách ưu đãi đó chưa đủ sức kích cầu, cần được nâng cấp hoặc điều chỉnh cho phù hợp với thực tế.

Tại Điều 15 đại biểu cho rằng: (1) Khi Chính phủ, đề xuất ban hành 1 chính sách ưu đãi thì cần phải đánh giá tác động từ cả hai phía là tích cực và những tác động tiêu cực về: kinh tế, xã hội, bình đẳng giới, thủ tục hành chính,… và có phương án xử lý kịp thời, nếu có vấn đề xảy ra, chú trọng sử dụng phương pháp định lượng. Đây là cơ sở rất quan trọng để cơ quan, tổ chức, cá nhân đưa ra quyết định phù hợp với thực tiễn và lợi ích của cộng đồng, đảm bảo chính sách đó thực sự mang lại lợi ích chung, giảm thiểu rủi ro và có chất lượng, hạn chế tình trạng, chính sách ưu đãi đầu tư dàn trải, lãng phí, gây xói mòn cơ sở thu ngân sách. (2) Chính sách ưu đãi cần hết sức chú ý đến việc bảo đảm tính minh bạch, rõ ràng về điều kiện, tiêu chí, thủ tục, để doanh nghiệp thật sự dễ tiếp cận.

Về quỹ hỗ trợ đầu tư tại Điều 17 đại biểu kiến nghị 4 nội dung: (1) Chính phủ cần rà soát, đánh giá hiệu quả hoạt động của Quỹ trong thời gian qua, cần làm rõ Quỹ có tạo được sức lan tỏa cho đầu tư tư nhân hay không hay là Quỹ bị trùng lặp với các quỹ khác. Làm cơ sở để dự thảo Luật nghiên cứu bổ sung hoặc là giao Chính phủ quy định chi tiết, để Quỹ thật sự trở thành công cụ chính sách đầu tư thực sự hiệu quả. (2) Xác định Quỹ “là vốn mồi”, tập trung vào một số nhiệm vụ trọng điểm và xác định rõ đối tượng ưu tiên như: Hạ tầng chiến lược (rất cần thiết trong điều kiện hiện nay) hay là hỗ trợ đổi mới sáng tạo, công nghệ cao; hoặc kinh tế xanh - kinh tế tuần hoàn, áp dụng một số cơ chế đặc thù cho địa phương có nhu cầu lớn. (3) Dự thảo Luật xem xét tăng cường mức độ ủy quyền cho địa phương với khung quản trị thống nhất, để địa phương được lựa chọn dự án trong danh mục; triển khai thủ tục giải ngân; giám sát thực hiện trực tiếp bởi vì chính địa phương mới nắm rõ nhu cầu và ra quyết định mang tính kịp thời. (4) Thiết lập kênh tiếp nhận phản hồi từ doanh nghiệp và các bên liên quan để kịp thời điều chỉnh các quy định, chính sách của Quỹ cho phù hợp với thực tiễn và biến động của môi trường đầu tư.

NGỌC HIẾU

Chia sẻ bài viết