23/11/2022 - 19:38

Dấu ấn Võ Văn Kiệt trên vựa lúa Việt Nam 

Bài, ảnh: THANH MAI

Bằng bản lĩnh, trí tuệ cùng sự quyết đoán, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã có nhiều quyết định mang tính lịch sử, khai phóng ÐBSCL từ chỗ thiếu đói vào những năm đầu thống nhất đất nước, vươn lên trở thành vựa lúa, góp phần để Việt Nam trở thành cường quốc lúa gạo của thế giới.

Tượng đài Võ Văn Kiệt tại Công viên văn hóa Võ Văn Kiệt ở đầu vàm kênh Võ Văn Kiệt tiếp giáp kênh Vĩnh Tế.

Khai phóng Đồng Tháp Mười

Trong ký ức chưa xa của thế hệ người dân và cán bộ lãnh đạo các tỉnh ÐBSCL, tên tuổi Thủ tướng Võ Văn Kiệt gắn liền với những công trình mang tính khai phóng cho vùng đất phương Nam. Dấu ấn, không chỉ vì ông đã ký ban hành chủ trương mang tính khai phóng nhiều vấn đề tưởng chừng như “không thể thành hiện thực” tại 2 cánh đồng lớn nhất ÐBSCL là Ðồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên, mà còn ở sự quan tâm, thấu đáo xuyên suốt hành trình triển khai thực hiện.

Sinh thời, ông Nguyễn Thanh Phong, cố Chủ tịch UBND tỉnh Ðồng Tháp, trong bài viết “Thủ tướng Võ Văn Kiệt và việc khai thác Ðồng Tháp Mười” đã ví ông Kiệt là người “mở khóa” để biến cánh đồng hoang thành vùng đất trù phú, sầm uất như ngày nay. Không chỉ “vào cuộc” sớm để châm ngòi cho Chương trình khai thác và phát triển kinh tế - xã hội Ðồng Tháp Mười (1987), bằng tầm nhìn xa, trông rộng của sự mẫn tiệp, ngay từ năm 1983, sau khi vừa được bầu làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước, ông đã đặt những viên gạch đầu tiên cho việc khai thác ÐBSCL bằng việc thành lập Chương trình Ðiều tra cơ bản tổng hợp ÐBSCL và sau đó là hàng loạt chương trình mang tính kiến tạo, như: Khai thác và phát triển kinh tế- xã hội vùng Ðồng Tháp Mười (1987), Tứ giác Long Xuyên (1988), Thoát lũ ra biển Tây (1988) và Ngọt hóa Bán đảo Cà Mau (1989)… Không chỉ tạo nền tảng mới, mà còn tạo ra động lực hun đúc mọi nguồn lực xã hội cùng chung tay vào cuộc để nơi đây thực hiện cú vươn vai Phù Ðổng khi từ vùng thiếu đói vào những năm đầu sau ngày thống nhất đất nước, trở thành cường quốc gạo của thế giới.

“Tuy rất nhiệt tình với mong muốn khai thác Ðồng Tháp Mười thành cánh đồng lúa “cò bay thẳng cánh”, nhưng Ðồng Tháp rất lúng túng, chưa biết bắt đầu từ đâu và như thế nào với “ổ phèn khổng lồ” mà ngay các nhà khoa học nước ngoài cũng chào thua, thì mọi chuyện đã thay đổi khi ông Kiệt ra tay” - ông Phong viết. Ông Kiệt mời lãnh đạo 3 tỉnh Long An, Tiền Giang, Ðồng Tháp lên nhà riêng ở Thủ Ðức để bàn việc khai thác Ðồng Tháp Mười. Ðây là cuộc họp rất đặc biệt. Không nghi thức, không tài liệu khoa học, ông Kiệt chỉ khơi gợi và đề nghị các địa phương quyết tâm khai thác Ðồng Tháp Mười bằng 3 mũi giáp công. Ðó là sự kết hợp nhuần nhuyễn, hài hòa giữa quyết tâm chính trị với ý kiến các nhà khoa học và kinh nghiệm truyền đời của người dân bản địa… Trong giờ nghỉ giải lao, ông Kiệt đã gọi ông Phong ra trao đổi riêng và đã trao chiếc chìa khóa động lực cho hành trình chinh phục thiên nhiên: “Phải mạnh dạn làm. Suy nghĩ rồi làm, chớ không nhứt thiết phải theo bài bản, sách vở gì cả! Nếu có mất, thì chỉ là một phần của Ðồng Tháp Mười. Nếu được, thì được cho cả nước”. Sau pháo lệnh đó, Ðồng Tháp thành lập Ban Khai thác Ðồng Tháp Mười và mời gọi các nhà khoa học: Võ Tòng Xuân, Trần Kim Thạch, Hồ Chín… tiếp sức. Từ đó, không khí chinh phục Ðồng Tháp Mười lan từ Ðồng Tháp ra các tỉnh Long An, Tiền Giang.

Không chỉ khai mở, ông còn dõi theo và có mặt kịp thời trong suốt hành trình. Khi gặp khó trong việc đào kênh dẫn nước ngọt, đẩy lùi phèn do đất cứng, nhiều sỏi đá và sót bom đạn chiến tranh… Ðồng Tháp cầu cứu, lập tức ông lệnh cho Bộ Thủy lợi điều động cơ giới về hỗ trợ. Nhờ đó đã tạo dựng lòng tin để người dân cùng cả hệ thống chính trị dốc hết tâm sức, dấn thân vào hành trình chinh phục…

Dấu ấn lòng người trên Tứ giác Long Xuyên

Nếu như ở Ðồng Tháp Mười, ông là người khai phóng, thì ở Tứ giác Long Xuyên, ông Võ Văn Kiệt đã để lại những dấu ấn đẹp mãi với thời gian khi có những chủ trương đi vào lòng người trong hành trình chinh phục thiên nhiên. Ðiển hình là công trình Kênh Võ Văn Kiệt. “Ðó là kết quả của sự táo bạo chỉ có thể có được ở người có bản lĩnh, trí tuệ, tầm nhìn và sự quyết đoán” - ông Nguyễn Minh Nhị, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh An Giang, nhớ lại.

Ngày 25-7-1996, trong lần về An Giang khảo sát tình hình ngập lụt, sau khi lắng nghe tiếng dân và đề xuất của lãnh đạo tỉnh An Giang cùng tham mưu của nhà khoa học, ông Kiệt đã có chủ trương đi vào lòng dân khi quyết định đầu tư kênh Tuần Thống nối từ kênh Vĩnh Tế đoạn đi qua xã Lạc Quới (Tri Tôn, An Giang) chạy thẳng ra biển Tây tại Lình Huỳnh (Hòn Ðất, Kiên Giang) mà không phải qua các khâu trình duyệt của thủ tục hành chính như thường lệ. Chính quyết sách táo bạo này đã truyền cảm hứng để An Giang triển khai thực hiện công trình với tốc độ “kỷ lục”: Chỉ sau 4 tháng khởi công (22/4/1997-30/8/1997) đã hoàn thành công trình 36.700m có thiết kế mặt rộng 30-36m; đáy rộng 20m, sâu 4-4,5m với tổng lượng đất đào 5.608.000m3, đất đắp 2.257.000m3. Công trình được ví như mảnh ghép cuối trong hệ thống thoát lũ ra biển Tây sau khi đầu tư chuỗi hệ thống cầu cạn Xuân Tô, đập tràn Tha La - Trà Sư...

TS Tô Văn Trường, nguyên Viện trưởng Viện Quy hoạch thủy lợi miền Nam - một trong những người tham mưu về thủy lợi cho Thủ tướng Võ Văn Kiệt lúc đương thời, lý giải: Việc đào kênh Võ Văn Kiệt được xem là con đường ngắn nhất đưa nguồn nước phèn không chảy vào Tứ giác Long Xuyên như tự nhiên thoát ra biển Tây nhanh hơn (khoảng 3.000-4.000m3/s). Theo TS Trường, trước khi có công trình này, lũ đầu mùa từ vũng trũng Campuchia không mang nhiều phù sa, hơi chua chảy tự nhiên vào vùng Tứ giác Long Xuyên. Ðiều này sẽ làm hạn chế nước ngọt từ sông Hậu theo các kinh trục dọc quốc lộ 91 Châu Ðốc - Long Xuyên đi vào vùng Tứ giác Long Xuyên. Vì thế có thể nói, công trình này đã tạo ra dấu ấn lịch sử khi lần đầu tiên phủ nước ngọt toàn cánh đồng gần 500.000ha của Tứ giác Long Xuyên. Ðược dòng kênh dẫn nước ngọt vào tháo chua, rửa phèn, nông dân vùng Tri Tôn, Châu Phú, Thoại Sơn (An Giang), Hòn Ðất, Kiên Lương, Giang Thành (Kiên Giang) từng bước sản xuất có hiệu quả và đưa cánh đồng phèn lớn thứ 2 ở ÐBSCL trở thành vựa lúa lớn của cả nước. “Tuy nhiên sẽ là không đầy đủ khi gọi đây là công trình trị thủy” - TS Trường nhấn mạnh thêm: “Kết hợp đất đào kênh đổ lên hình thành tuyến dân cư cho hàng ngàn người dân có nơi an cư để lạc nghiệp, gắn bó lâu dài và thịnh vượng ngay trên vùng đất từng một thời là ám ảnh đói nghèo”.

Nhớ ơn ông đã quyết định đào kênh, người dân trìu mến gọi là kênh Ông Kiệt, như sự tri ân người khai mở ánh sáng ấm no, hạnh phúc... Thể hiện tâm nguyện nhân dân, tại kỳ họp lần thứ 14, HÐND tỉnh An Giang khóa VII đã ra Nghị quyết số 24 (10-7-2009) chính thức đặt tên kênh Võ Văn Kiệt thay cho tên cũ. Ðể ghi nhận công trình tầm nhìn chiến lược đó, tỉnh An Giang đã cho xây dựng “Công viên văn hóa Võ Văn Kiệt” tại đầu kênh, thuộc xã Lạc Quới, đúng ngày giỗ lần thứ ba của ông như sự ghi nhận đóng góp với vùng đất... Bên dưới tượng đồng tạc chân dung ông là nội dung văn bia do đích thân ông Nguyễn Minh Nhị chắp bút như ghi dấu một công trình lưu danh hậu thế: “Kênh Võ Văn Kiệt nối tiếp Vĩnh Tế, Thoại Hà. Lịch sử 200 năm liên tục một dòng chảy cuộn tràn sức sống trên mảnh đất phương Nam. Các thế hệ Việt Nam sẽ nương dòng chảy ấy, hiên ngang ra biển lớn với tất cả đức tin, niềm tự hào và lòng biết ơn sâu sắc...”.

Chia sẻ bài viết