04/08/2025 - 11:29

Đảng Cộng sản Việt Nam - nhân tố quyết định thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là bước ngoặt lịch sử vĩ đại, đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập - tự do.

Thắng lợi ấy là kết quả tổng hòa của nhiều nhân tố, trong đó nhân tố có tính quyết định, xuyên suốt và dẫn dắt mọi yếu tố khác chính là vai trò lãnh đạo đúng đắn, kiên cường và sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam.


Từ ngày 6/1 - 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam họp ở bán đảo Cửu Long, thuộc Hong Kong (Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế Cộng sản. Ảnh: Tranh tư liệu/TTXVN phát

Đảng xác định đúng đường lối cách mạng

Trước khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào ngày 3/2/1930, dân tộc Việt Nam chìm trong đêm trường nô lệ. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật, đất nước bị xâu xé, nhân dân đói khổ, lầm than. Mọi phong trào yêu nước trước đó dù đầy khí phách, nhưng đều thất bại vì thiếu đường lối đúng đắn và một tổ chức cách mạng đủ năng lực lãnh đạo. Chính trong bối cảnh ấy, Đảng Cộng sản Việt Nam - với sứ mệnh lịch sử là người đại diện chân chính cho lợi ích của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc - đã xuất hiện như một tất yếu lịch sử.

Ngay từ khi thành lập, Đảng đã xác định rõ con đường cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc. Chánh cương vắn tắt của Đảng xác định mục tiêu chiến lược là: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập” (1).

Sau đó, đường lối cách mạng của Đảng đã không ngừng được bổ sung, phát triển cho phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, thể hiện rõ qua các Hội nghị Trung ương Ðảng. Hội nghị Trung ương tháng 11/1939 chỉ rõ “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Ðông Dương không có con đường nào khác hơn là đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập” (2). Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) nhấn mạnh: “Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập cho đất nước là một nhiệm vụ trước tiên của Ðảng ta” (3).

Về phương pháp cách mạng, Đảng xác định “Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang” (4). Khởi nghĩa vũ trang là con đường giành chính quyền, nhưng không chủ quan, duy ý chí mà kiên trì chuẩn bị các điều kiện cần thiết. Và chủ trương "khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi nghĩa" chính là chiến lược sáng suốt của Đảng.

Đến khi phát-xít Nhật đảo chính thực dân Pháp để độc chiếm Ðông Dương (9/3/1945), Thường vụ Trung ương Ðảng đã ngay lập tức ra bản chỉ thị lịch sử: “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (12/3/1945), xác định rõ kẻ thù lúc này của cách mạng là phát-xít Nhật. Từ đó, Ðảng đã phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ để làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa.

Xây dựng lực lượng cách mạng toàn diện, rộng khắp


Sáng 19/8/1945, hàng chục vạn người dân ở Hà Nội và các tỉnh lân cận theo các ngả đường kéo về quảng trường Nhà hát lớn Hà Nội dự cuộc mít tinh lớn chưa từng có của quần chúng cách mạng, hưởng ứng cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Ảnh Tư liệu TTXVN

Cùng với việc đưa ra đường lối đúng, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân ta chuẩn bị lực lượng một cách bài bản và toàn diện cho cuộc Tổng khởi nghĩa.

Trên thực tế, việc xây dựng lực lượng cách mạng đã được tiến hành từ rất sớm. Ngay từ khi mới ra đời, với Cương lĩnh chính trị đúng đắn, Đảng ta đã huy động được đông đảo quần chúng nhân dân làm nên một cao trào cách mạng rộng lớn trong phạm vi cả nước, với những hình thức đấu tranh phong phú, đa dạng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân đã tiến hành cao trào cách mạng 1930-1931, cao trào dân chủ 1936-1939 và cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939-1945.

Từ năm 1941, Hội nghị Trung ương 8 đã thành lập Mặt trận Việt Minh, qua đó quy tụ mọi lực lượng yêu nước: công nhân, nông dân, trí thức, tiểu thương... Các tổ chức cứu quốc (công nhân, thanh niên, phụ nữ, nông dân…) ra đời khắp nơi, tạo thành mạng lưới chính trị rộng lớn, gắn bó chặt chẽ với nhân dân.

Để đáp ứng yêu cầu của cách mạng, ngày 22/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam) được thành lập theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tháng 4/1945, Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam Giải phóng quân. Đây chính là đội quân chủ lực cho Tổng khởi nghĩa sau này.

Từ năm 1940-1945, Đảng đã tích cực chỉ đạo xây dựng và củng cố các căn cứ địa cách mạng. Chỉ trong một thời gian ngắn, ta đã xây dựng được một vùng căn cứ địa Việt Bắc rộng lớn, bao gồm hầu hết các vùng nông thôn thuộc sáu tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, cùng nhiều chiến khu và căn cứ vũ trang khác, như: Bắc Giang, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Phú Thọ, Yên Bái, Hải Dương, Ninh Bình, Thanh Hoá, Quảng Ngãi... Đây là những cơ sở trọng yếu chỉ đạo quá trình xây dựng, phát triển lực lượng cách mạng, là những trung tâm đầu não lãnh đạo lực lượng khởi nghĩa trên phạm vi toàn quốc.

Với tầm nhìn chiến lược và phương pháp tổ chức chặt chẽ, Đảng ta đã từng bước xây dựng được một lực lượng cách mạng vững mạnh, cả về chính trị, quân sự lẫn cơ sở quần chúng, tạo tiền đề quyết định cho cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám giành thắng lợi trên phạm vi cả nước.

Nhạy bén trong đánh giá tình hình và chớp thời cơ cách mạng


Những ngày Tháng Tám sôi sục ở Thủ đô Hà Nội. Ảnh: Tư liệu TTXVN

Chớp đúng thời cơ khởi nghĩa là một vấn đề có ý nghĩa quyết định tới thắng lợi của mọi cuộc cách mạng. Nhận thức rõ điều này, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chớp thời cơ, hành động kịp thời và kiên quyết trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.

Thời cơ của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 xuất hiện khi phát-xít Nhật đầu hàng Đồng minh, hàng ngũ chỉ huy của Nhật ở Đông Dương chia rẽ đến cực điểm, quân lính Nhật tan rã, mất tinh thần, Việt gian thân Nhật hoảng sợ. Đồng thời, đây cũng là lúc mọi chuẩn bị của Đảng ta về lực lượng, đường lối, phương châm tác chiến đã hoàn thiện, cao trào cứu nước của toàn dân đã dâng lên tới đỉnh điểm. Các cuộc khởi nghĩa từng phần đã nổ ra và thắng lợi ở nhiều vùng. Khu giải phóng và căn cứ địa được lập ra trong cả nước, quân đội cách mạng đã được thành lập, mọi lực lượng đã sẵn sàng chiến đấu. Thời cơ cách mạng chỉ tồn tại từ khi phát-xít Nhật đầu hàng Đồng minh đến trước khi quân Đồng minh vào Việt Nam. Đó là lúc kẻ thù cũ đã thất thế, nhưng kẻ thù mới chưa kịp đến, tạo thành tình thế so sánh lực lượng có lợi nhất cho cách mạng.

Chớp thời cơ, Đảng đã dứt khoát hành động. Ngày 13/8/1945, Ủy ban Khởi nghĩa ra lệnh Tổng khởi nghĩa. Ngày 14-15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp gấp để thống nhất kế hoạch. Ngày 16/8/1945, Quốc dân Đại hội thông qua Lệnh Tổng khởi nghĩa và 10 chính sách lớn của Việt Minh. Ngày 18/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta… Chúng ta không thể chậm trễ”. (5)

Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả dân tộc Việt Nam nhất tề đứng dậy. Cách mạng Việt Nam nhanh chóng chuyển từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa.

Nhờ có sự chuẩn bị lực lượng chu đáo, lại nổ ra đúng lúc, đúng thời cơ, Cách mạng Tháng Tám đã nhanh chóng giành được thắng lợi.

Đảng cách mạng chân chính luôn đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, trước hết


Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra mắt sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công. Ảnh: TTXVN

Một nhân tố then chốt tạo nên lòng tin và sức mạnh của toàn dân chính là đạo đức, uy tín, trí tuệ và bản lĩnh của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Không chỉ là người khai sinh ra Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là linh hồn của Cách mạng Tháng Tám, là người trực tiếp hoạch định chiến lược, xây dựng lực lượng, chỉ đạo Tổng khởi nghĩa. Tấm gương đạo đức cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấm sâu vào từng chủ trương, hành động và phong cách lãnh đạo của toàn Đảng. Đó là đạo đức của người chiến sĩ cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, sẵn sàng hy sinh quyền lợi cá nhân vì lợi ích của dân tộc.

Ngoài Chủ tịch Hồ Chí Minh, tập thể lãnh đạo Đảng lúc đó gồm các đồng chí Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Tôn Đức Thắng… Đây là những người lãnh đạo không chỉ nắm vững lý luận Mác - Lênin, mà còn thấu hiểu sâu sắc hiện thực xã hội Việt Nam, có năng lực tổ chức và chỉ đạo phong trào cách mạng rộng lớn. Đó là những con người đã từng hoạt động bí mật giữa lòng địch, từng bị địch bắt, tra tấn, tù đày nhưng vẫn không hề nao núng, luôn giữ vững tinh thần cách mạng và niềm tin sắt son vào thắng lợi của cách mạng.

Tầm vóc của Đảng trong Cách mạng Tháng Tám không chỉ ở vai trò cầm quyền, mà còn ở bản lĩnh dám chịu trách nhiệm trước dân tộc, dám dẫn dắt nhân dân, dù phía trước là vô vàn thách thức. Đó là bản lĩnh chính trị của một Đảng cách mạng chân chính, luôn đặt lợi ích của dân tộc, của nhân dân lên trên hết, trước hết.

Chính sự thống nhất cao độ trong tư tưởng, tổ chức và hành động giữa các cấp lãnh đạo Đảng, từ Trung ương đến cơ sở, đã tạo nên một hệ thống lãnh đạo hiệu quả. tạo nên niềm tin tuyệt đối của nhân dân với Đảng.

Cách mạng Tháng Tám đã để lại bài học quý giá về vai trò quyết định của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như xây dựng và phát triển đất nước. 80 năm đã trôi qua, bài học ấy vẫn còn nguyên giá trị, tiếp tục soi sáng con đường đi lên của dân tộc trong thời đại mới. Kiên định với lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, không ngừng đổi mới phương thức cầm quyền, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc - đó chính là nền tảng vững chắc để Việt Nam vững vàng vượt qua mọi thử thách, viết tiếp những trang sử vẻ vang trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

---------------------------------------------------
(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 3, tr.1
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Ðảng toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập      6, tr.536
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Ðảng toàn tập, sđd, tập 7, tr.118.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam - Văn kiện Đảng toàn tập, sđd, tập 7, tr.129
(5) Hồ Chí Minh, Toàn tập, sđd, tập 3, tr. 596

Minh Duyên (TTXVN)

Chia sẻ bài viết