Năm 2013, ngành THADS thành phố phải thi hành 12.248 việc, so với năm 2012 tăng 1.494 việc (13,89%), với tổng số tiền hơn 1.665 tỉ đồng. Trong đó, số có điều kiện thi hành án là 10.808 việc; đã giải quyết xong là 8.609 việc, với tổng số tiền hơn 612 tỉ đồng... Các cơ quan THADS thuộc thành phố đã ra quyết định cưỡng chế 383 trường hợp, đã thực hiện có kết quả 321 trường hợp, còn lại 62 trường hợp do trước khi tổ chức cưỡng chế các bên đương sự đã thỏa thuận việc thi hành án và tự nguyện thi hành trước khi cưỡng chế. Tuy nhiên, số lượng việc và giá trị thi hành xong không theo kịp mức độ tăng của án thụ lý mới trong năm 2013.
Theo ông Phạm Quốc Việt, Cục trưởng Cục THADS thành phố, công tác THADS ở thành phố còn có những khó khăn vướng mắc như: án thụ lý mới có giá trị rất lớn (17,05% về việc; 47,64 % về giá trị so cùng kỳ năm trước); một số vụ có dấu hiệu lừa đảo trong chuyển nhượng hoặc ủy quyền thế chấp nhà, đất cho ngân hàng, khi xử lý tài sản phát sinh tranh chấp phức tạp... Nhiều vụ việc chưa có điều kiện thi hành, một số vụ việc phải thi hành định kỳ kéo dài nhiều năm mới dứt điểm; nhiều vụ việc không thể thi hành nhanh do phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án hoặc do quy định pháp luật liên quan phải kéo dài thời gian thi hành án; tài sản kê biên, tổ chức bán đấu giá nhiều lần nhưng không có người mua... Riêng án thi hành cho 37 tổ chức tín dụng, ngân hàng tại địa phương còn 371 việc, với số tiền phải thi hành án hơn 646 tỉ đồng.
Một trong những nguyên nhân của hạn chế trên là do một số cán bộ lãnh đạo các cơ quan THADS còn có biểu hiện yếu kém trong việc quản lý, điều hành đơn vị; chất lượng hoạt động của một số Chấp hành viên chưa cao, kinh nghiệm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ còn có mặt hạn chế, chưa tích cực cập nhật kiến thức nghiệp vụ để nâng cao trình độ chuyên môn phục vụ cho nhu cầu công tác. Ngoài ra, một số cơ quan, tổ chức ở địa phương không thực hiện quyết định của Chấp hành viên trong việc xử lý tài sản của người phải thi hành án hay còn chưa thống nhất biện pháp xử lý các trường hợp có dấu hiệu vi phạm pháp luật THADS hoặc chưa thống nhất quan điểm về nội dung giải quyết những vụ việc có khiếu nại trong hoạt động thi hành án. Mặt khác, do ảnh hưởng suy thoái kinh tế, án phát sinh rất nhiều, giá trị tài sản phải thi hành rất lớn, người phải thi hành án không có khả năng thi hành dứt điểm bản án. Ý thức tự giác tuân thủ pháp luật của một số tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thi hành án (nhất là của người phải thi hành án) chưa cao, nhiều trường hợp người phải thi hành án cố tình chây ỳ, tẩu tán tài sản để trốn tránh hoặc khiếu nại vượt cấp, khiếu nại tố cáo gian dối gửi nhiều nơi, kéo dài nhằm mục đích gây khó khăn cho hoạt động thi hành bản án.
Theo ông Phạm Quốc Việt, Cục trưởng Cục THADS thành phố, nguyên nhân mang tính chi phối là do thể chế về công tác THADS còn nhiều bất cập như: Một số điều luật thi hành án và kể cả các văn bản hướng dẫn thi hành không phù hợp với thực tiễn, nhưng chậm được sửa đổi. Ngoài ra, còn thiếu một số văn bản hướng dẫn thi hành. Ví dụ: Sự không đồng bộ giữa Luật THADS, Luật Nhà ở, Luật Dân sự trong việc xác định thời điểm chuyển dịch quyền sở hữu tài sản; các quy định về thẩm định giá và bán đấu giá tài sản; quy định về việc kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án đã bán, chuyển đổi
sau khi có bản án; quy định cơ quan THADS phải tổ chức thi hành các bản án tuyên không rõ ràng, có sai sót mà Tòa án không giải thích cho Cơ quan thi hành án trong thời hạn luật định. Các quy định này làm cho các Cơ quan THADS gặp rất nhiều khó khăn
C.H