08/10/2025 - 19:18

Chủ động phòng ngừa, tầm soát đột quỵ 

TS.BS Hà Tấn Đức, Trưởng Khoa Đột quỵ, Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ, cho biết đột quỵ là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ 2 trên toàn cầu. Theo báo cáo của Hội Đột quỵ thế giới, nếu tính tất cả các thể đột quỵ thì Việt Nam là một trong những vùng dịch tễ của bệnh, với tần suất vượt 218 ca/100.000 dân/năm. Tuy nhiên, người dân nhầm lẫn giữa nhồi máu cơ tim, ngưng tim đột ngột và đột quỵ (tai biến mạch máu não), đồng thời nhiều người chưa có các biện pháp phòng ngừa, tầm soát bệnh. 

Phóng viên Báo và Phát thanh, Truyền hình Cần Thơ đã có buổi phỏng vấn TS.BS Hà Tấn Đức về vấn đề này.

Xin bác sĩ cho biết, số ca đột quỵ có phải ngày càng tăng?

- Bệnh đột quỵ có tăng. Ngoài các yếu tố không thay đổi được như di truyền, tuổi cao, chủng tộc, tiền sử gia đình (tình trạng tăng đông máu, bệnh mạch máu não do amyloid); thì còn có nguyên nhân có thể chủ động phòng tránh như hút/hít khói thuốc lá, uống nhiều bia rượu, lối sống ít vận động, béo phì, ăn mặn, tình trạng ngưng thở khi ngủ... Ngoài ra còn do ô nhiễm môi trường. Càng tiếp xúc sớm với các yếu tố nguy cơ và cường độ tiếp xúc càng cao thì khả năng mắc đột quỵ sẽ tăng thêm tương ứng.

Như vậy mọi người cần tầm soát đột quỵ như thế nào, thưa bác sĩ?

- Tầm soát bệnh đột quỵ giống như khám sức khỏe định kỳ. Đối với khám sức khỏe định kỳ, cần thường xuyên thực hiện ở người từ 45 tuổi trở lên. Gói khám sức khỏe định kỳ bao gồm các khám lâm sàng để phát hiện tình trạng tăng huyết áp, khảo sát các sinh hoạt hằng ngày, các tiền căn bệnh của gia đình và cá nhân, và các xét nghiệm thông thường về mỡ máu, đường huyết, chức năng thận, gan, đo điện tim, siêu âm bụng... Các xét nghiệm cơ bản này bao phủ khoảng 95-97% các yếu tố nguy cơ đột quỵ. Cần nhấn mạnh rằng, việc tầm soát áp dụng đối với người hoàn toàn không có triệu chứng hoặc dấu hiệu bất thường. Nếu có triệu chứng hoặc dấu hiệu bất thường thì người bệnh cần đi khám bệnh để tìm nguyên nhân bệnh, trong trường hợp này không gọi là khám tầm soát.

Thưa bác sĩ, bên cạnh tầm soát phát hiện sớm, thì người dân cần làm gì để phòng ngừa bệnh đột quỵ?

- Muốn phòng đột quỵ cần kiểm soát các yếu tố nguy cơ. Trong các yếu tố này, có những yếu tố không thay đổi được và có những yếu tố có thể thay đổi được. 

Tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ chính của đột quỵ (thiếu máu cục bộ ở não, hoặc xuất huyết não) liên quan 55% các ca đột quỵ. Bệnh đái tháo đường cũng là một trong các yếu tố nguy cơ chính của đột quỵ thiếu máu não. Nguy cơ mắc đột quỵ ở người đái tháo đường tăng 3% mỗi năm và nếu mắc đái tháo đường trên 10 năm thì nguy cơ đột quỵ tăng gấp 3 lần (so với người không mắc đái tháo đường). Ngoài ra, đái tháo đường thường kèm tăng huyết áp, rối loạn lipid máu và béo phì.

Bên cạnh đó còn có rối loạn mỡ máu tăng cao cholesterol tỷ trọng thấp (một thành phần trong mỡ máu) làm tăng nguy cơ đột quỵ thiếu máu não. Theo một số nghiên cứu dịch tễ, thì việc hạ quá thấp cholesterol tỷ trọng thấp (< 55 mg/dL) cũng có thể có liên quan đến tăng nguy cơ xuất huyết não.

Tác nhân khác nữa là rung nhĩ - một trong những rối loạn nhịp tim - gây đột quỵ do thuyên tắc huyết khối từ tim, chiếm khoảng 20% các ca đột quỵ thiếu máu não. Nguy cơ này làm gia tăng đột quỵ từ 0,2-10,8% hằng năm (tùy thuộc có kết hợp với các yếu tố nguy cơ khác hay không, như suy tim, tăng huyết áp, đái tháo đường, bệnh mạch máu phối hợp, tiền căn đã bị đột quỵ).

Đặc biệt, người hút thuốc tăng nguy cơ đột quỵ thiếu máu và xuất huyết cao từ 1,5-2 lần so với người không hút.

Một khi đã phát hiện các yếu tố nguy cơ liên quan đến đột quỵ, cần loại trừ hoặc kiểm soát các yếu tố nguy cơ đó, thì khả năng mắc đột quỵ trong tương lai sẽ giảm. Cụ thể như cần phải thực hiện lối sống lành mạnh (chế độ ăn giàu chất xơ, trái cây, ngũ cốc nguyên hạt; tránh lạm dụng rượu bia, không hút thuốc lá, tránh ăn mặn và chất béo bão hòa; tập thể dục đều đặn, giảm stress, giữ cân nặng ở mức bình thường).

Đối với các trường hợp bệnh lý như tăng huyết áp, đái tháo đường, suy tim, rung nhĩ... chưa kiểm soát được bằng thay đổi lối sống thì cần sử dụng thuốc. Ví như nếu kiểm soát huyết áp tốt có thể giảm nguy cơ xảy ra đột quỵ từ 20-40%.

Người ta hay nói về giờ vàng trong đột quỵ, xin bác sĩ cho biết giờ vàng là gì và quan trọng như thế nào?

- Đối với bệnh lý đột quỵ nói chung, cần đưa bệnh nhân đến bệnh viện nơi có đơn vị chăm sóc hay chuyên khoa đột quỵ càng sớm càng tốt. Đặc biệt, đối với đột quỵ thiếu máu não cấp (nhồi máu não), khoảng thời gian trước 3-4,5 giờ đầu tiên của người bệnh được gọi là thời gian vàng, vì liên quan đến mức độ tổn thương tế bào não, thời gian tái thông mạch máu càng lâu thì mức độ tổn thương não sẽ càng nhiều.

Các dấu hiệu đơn giản giúp chúng ta nên nghĩ đến đột quỵ khi bệnh nhân đột ngột xuất hiện một trong các triệu chứng: méo miệng, tê hoặc yếu một bên người, nói khó nói lắp bắp, không nói được hoặc hôn mê. Ngoài ra, một số dấu hiệu ít gặp hơn và có thể là dấu hiệu của các bệnh khác, nhưng cũng có thể gợi ý đột quỵ như chóng mặt mất thăng bằng, đau đầu dữ dội.

Từ tháng 1-2024 đến tháng 6-2025, Khoa Đột quỵ, Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ đã tiếp nhận và điều trị cấp cứu cho 2.017 bệnh nhân. Trong số này 55% là nhồi máu não, 10,8% là xuất huyết não, còn lại là các bệnh khác. Tổng số bệnh nhân phải đặt nội khí quản thở máy là 315 người, số lượng bệnh nhân nặng chiếm bình quân 15,6% trong tổng số bệnh nhân cấp cứu. Kết quả điều trị cho thấy tỷ lệ bệnh nhân khỏi/giảm bệnh là 81,6%. Trong nhiều năm qua, khoa đã nhiều lần đạt giải thưởng bạch kim, kim cương về chất lượng chăm sóc đột quỵ của Hội Đột quỵ thế giới trao tặng.

Các thủ thuật chuyên biệt đã được các bác sĩ của khoa triển khai cấp cứu cho bệnh nhân đột quỵ bao gồm: chụp động mạch não số hóa xóa nền, khai thông mạch não bằng thuốc tiêu sợi huyết đường tĩnh mạch, khai thông mạch não bằng thuốc tiêu sợi huyết đường động mạch, can thiệp lấy huyết khối mạch não bằng dụng cụ cơ học, chụp và nút phình động mạch não số hóa xóa nền, đặt stent động mạch cảnh ngoài sọ, đo điện não liên tục video, tiêm botulinum điều trị co cứng cơ. Khoa Đột quỵ cũng triển khai các kỹ thuật điều trị liên quan đến hồi sức cấp cứu như thở máy xâm lấn, lọc máu liên tục...

Xin cảm ơn bác sĩ!

H.HOA (Thực hiện)

Chia sẻ bài viết