Sáng 10-11, Quốc hội làm việc tại Hội trường nghe thành viên Chính phủ trình hai dự thảo Luật An toàn thực phẩm, Luật Người khuyết tật và Báo cáo thẩm tra hai dự thảo luật trên của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường và Ủy ban về Các vấn đề xã hội của Quốc hội.
Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Quốc Triệu trình bày Tờ trình dự án Luật an toàn thực phẩm nêu rõ, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác đảm bảo an toàn thực phẩm ở nước ta vẫn còn một một số yếu kém cần có các giải pháp mạnh, đồng bộ để khắc phục. Đó là tình hình ngộ độc thực phẩm tuy có giảm so với trước khi Pháp lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) được ban hành nhưng diễn biến vẫn còn khá phức tạp (Tổ chức Y tế Thế giới đánh giá, số người ngộ độc thực phẩm và bệnh truyền qua thực phẩm ở nước ta mỗi năm khoảng 8.200.000 người). Vấn đề ngộ độc thực phẩm mạn tính và mối liên quan giữa thực phẩm và các vấn đề sức khỏe và phát triển giống nòi đến nay Việt Nam vẫn chưa có đủ khả năng để đánh giá. Tình trạng sản xuất, chế biến, kinh doanh chưa bảo đảm ATTP còn chưa được kiểm soát chặt chẽ. Hoạt động liên ngành tuy đã được thiết lập, nhưng do các thành viên đều là lãnh đạo cấp bộ, ngành, lại hoạt động kiêm nhiệm nên hiệu quả hoạt động chưa cao, việc chỉ đạo chưa sát sao, sự phối hợp giữa các bộ, ngành chưa được chặt chẽ và thường xuyên. Hệ thống kiểm nghiệm, trang thiết bị kiểm nghiệm tuy đã được tăng cường nhưng thực tế còn thiếu nhiều các trang thiết bị phân tích có độ chính xác cao, năng lực cán bộ kiểm nghiệm còn hạn chế...
Báo cáo thẩm tra dự thảo Luật An toàn thực phẩm do Chủ nhiệm Ủy ban khoa học, công nghệ và môi trường (KHCN-MT) của Quốc hội Đặng Vũ Minh trình bày cho rằng việc ban hành Luật An toàn thực phẩm nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống người dân, sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản thực phẩm và đẩy mạnh xuất khẩu nông sản thực phẩm. Các quy định của dự thảo Luật cơ bản đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về ATTP trong tình hình mới. Tuy nhiên, Ủy ban KHCN-MT đề nghị chỉnh sửa quy định tại một số điều, khoản của dự thảo Luật để bảo đảm tính khả thi.
Về quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm quy định tại Chương IX dự thảo Luật, Ủy ban KHCN-MT cho rằng trong dự thảo Luật cần phân công rõ trách nhiệm của Bộ Y tế là Bộ chịu trách nhiệm trước Chính phủ quản lý nhà nước về ATTP, còn đối với các bộ khác nên giao Chính phủ phân công cụ thể; đồng thời phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương trong quản lý nhà nước về ATTP. Đề nghị bỏ Điều 51 quy định về nội dung quản lý nhà nước vì không cần thiết, chuyển Điều 52 về Chương I (Những quy định chung); đồng thời bổ sung vào Điều 52 nguyên tắc phân công trách nhiệm quản lý nhà nước của các bộ, theo hướng: Bảo đảm việc quản lý xuyên suốt trong toàn bộ chuỗi cung cấp thực phẩm. Tránh việc một cơ sở SX-KD thực phẩm có nhiều cơ quan quản lý nhà nước vào thanh tra, kiểm tra. Giảm bớt đầu mối các bộ tham gia vào công tác quản lý thực phẩm; không gây xáo trộn lớn về bộ máy tổ chức của các Bộ được phân công quản lý nhà nước về ATTP hiện nay. Phân cấp mạnh cho Ủy ban nhân dân các cấp trong quản lý nhà nước về ATTP.
Về quản lý thức ăn đường phố, bếp ăn tập thể, Ủy ban cho rằng dự thảo Luật cần có quy định theo nguyên tắc phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương và giao Chính phủ quy định cụ thể trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp trong việc ban hành quy định quản lý, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm đối với hoạt động SX-KD thức ăn đường phố. Trong dự thảo Luật cần có mục hoặc điều quy định quản lý ATTP đối với bếp ăn tập thể, trong đó quy định về cách thức chế biến, lưu mẫu, trách nhiệm của chủ cơ sở sản xuất, bếp trưởng trong việc thực hiện quy định bảo đảm ATTP.
Ủy ban về Các vấn đề xã hội của Quốc hội cho rằng việc ban hành Luật Người khuyết tật nhằm thể chế hóa quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với người khuyết tật, tiếp tục bổ sung hoàn thiện pháp luật, tạo điều kiện để người khuyết tật có cơ hội bình đẳng và từng bước nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần. Ủy ban đề nghị dự thảo Luật cần tiếp tục phát triển những quan điểm của Pháp lệnh về người tàn tật trên cơ sở tiếp cận những quan điểm của Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật, qua đó nhìn nhận vấn đề ở góc độ xã hội chứ không thiên về góc độ y tế như trước đây, chỉ tập trung vào chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng đối với người khuyết tật. Do vậy, quy định của dự án Luật hướng nhiều hơn đến các chính sách hỗ trợ, xóa bỏ rào cản về nhận thức, môi trường để người khuyết tật được bình đẳng về cơ hội, có điều kiện để chủ động tham gia vào đời sống xã hội. Việc xây dựng Luật Người khuyết tật là một bước hệ thống hóa các quy định pháp luật hiện hành.
Về chính sách khuyến khích sử dụng lao động là người khuyết tật, Pháp luật hiện hành quy định doanh nghiệp phải sử dụng một tỷ lệ nhất định lao động là người tàn tật. Tuy vậy, trong Báo cáo tổng kết tình hình thi hành Pháp lệnh về người tàn tật và Tờ trình của Chính phủ chưa có số liệu cũng như đánh giá đầy đủ về kết quả tổ chức thực hiện quy định này. Qua giám sát việc thực hiện pháp luật về người tàn tật và tham vấn công chúng cho thấy kết quả việc thi hành quy định này rất hạn chế. Đối với quy định của dự thảo Luật về vấn đề này, Ủy ban cho rằng, đảm bảo quyền lao động cho người khuyết tật là yếu tố cơ bản giúp họ hòa nhập với cộng đồng và xã hội. Tuy nhiên, việc để người khuyết tật có thể có việc làm sẽ rất khó khăn nếu như xã hội, Nhà nước không có sự quan tâm cụ thể. Vì vậy, cần có quy định để nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, tổ chức, cơ quan... đối với người khuyết tật. Do vậy, Ban soạn thảo cần có những đánh giá, phân tích sâu hơn về nguyên nhân, đề xuất các giải pháp khắc phục tình trạng bất cập này cũng như làm rõ những căn cứ để sửa đổi quy định này trong dự thảo Luật theo hướng tăng thêm cơ hội cho người khuyết tật có được việc làm, được lao động.
* Chiều 10-11, các đại biểu Quốc hội làm việc tại tổ, thảo luận về dự án Luật Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam (sửa đổi).
Trao đổi về vị trí của Ngân hàng Nhà nước quy định tại điều 2 của dự thảo Luật, nhiều ý kiến đồng tình với quy định của dự thảo Luật là “Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, là Ngân hàng Trung ương của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam” với lý do việc giữ nguyên địa vị pháp lý của NHNN như hiện nay là phù hợp với thể chế chính trị và trình độ phát triển, mức độ hội nhập của nền kinh tế cũng như nguồn lực cán bộ quản lý của Việt Nam. Việc xây dựng một Ngân hàng Trung ương hiện đại có tính tự chủ và tính độc lập cao trong hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ là mục tiêu lâu dài trong nhiều năm tới.
Xung quanh quy định về Hội đồng chính sách tiền tệ, đại biểu Nguyễn Hồng Sơn, Chu Sơn Hà (Hà Nội) tán thành với dự thảo Luật NHNN (sửa đổi) bỏ quy định trong Luật hiện hành về Hội đồng tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia cho Thủ tướng và bổ sung quy định Thống đốc có quyền thành lập các ban, hội đồng tư vấn (điểm c khoản 5, điều 9). Đại biểu cho rằng Thống đốc NHNN là người chịu trách nhiệm trước Chính phủ về việc chỉ đạo thực hiện chức năng, nhiệm vụ của NHNN, do đó luật cần trao cho Thống đốc quyền quyết định những vấn đề lớn liên quan đến CSTT trong phạm vi thẩm quyền của NHNN. Thống đốc có quyền thành lập Hội đồng tư vấn khi cần thiết.
Về phân định chức năng của Quốc hội, Chính phủ và NHNN trong việc hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ (Điều 5), nhiều ý kiến không tán thành với quy định của dự thảo Luật “Quốc hội quyết định mức lạm phát định hướng từng thời kỳ”. Đại biểu Nguyễn Thị Tuyến (Hà Nội) đánh giá việc phân định chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội như dự thảo Luật là chưa phù hợp với quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội, theo đó, Quốc hội “quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia” và “quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”. Trong khi lạm phát là một chỉ tiêu đóng vai trò hết sức quan trọng, có tính chất tổng quát, vĩ mô và ảnh hưởng đến nhiều chỉ tiêu cụ thể khác của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cũng như các chính sách kinh tế lớn (lãi suất, tiền lương,...). Vì vậy, Quốc hội cần quyết định chỉ tiêu lạm phát hàng năm.
Đại biểu Nguyễn Thị Tuyến và các ý kiến khác bày tỏ sự tán thành với kiến nghị của Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ trình Quốc hội chỉ tiêu lạm phát hàng năm; Chính phủ quyết định chỉ tiêu tổng phương tiện thanh toán và khung lãi suất, tỷ giá để chỉ đạo việc điều hành của NHNN nhằm đạt chỉ tiêu lạm phát mà Quốc hội đã quyết định. Ngân hàng Nhà nước đề xuất trình Chính phủ quy định: khung lãi suất, khung tỷ giá, tổng phương tiện thanh toán; quyết định mức lãi suất, tỷ giá cụ thể trong khung do Chính phủ quy định cho từng thời kỳ và chủ động sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ khác (dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở...).
Thảo luận về lãi suất, nhiều ý kiến tán thành với quy định của dự thảo Luật “Ngân hàng Nhà nước xác định, công bố lãi suất tái cấp vốn và các loại lãi suất điều hành khác nhằm thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Trong trường hợp thị trường có diễn biến bất thường, Ngân hàng Nhà nước quy định cơ chế điều hành lãi suất áp dụng trong quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với nhau và với các khách hàng theo quy định của Luật này và Luật các tổ chức tín dụng”. Trong bối cảnh thị trường tiền tệ, ngân hàng đã phát triển khá mạnh cả về quy mô và số lượng, các tổ chức tín dụng cần được quyền và có trách nhiệm trong việc xác định lãi suất trong giao dịch với khách hàng cũng như với các tổ chức tín dụng khác, dựa trên nguyên tắc thị trường và lãi suất điều hành do Ngân hàng Nhà nước công bố. Nhà nước phải quản lý và kiểm soát được lãi suất của các tổ chức tín dụng, nhằm tạo sự ổn định cho hoạt động tiền tệ, tín dụng nói riêng và ổn định kinh tế nói chung.
Đại biểu Nguyễn Lân Dũng (Đắk Lắk) băn khoăn về quy định trách nhiệm cung cấp thông tin cho Ngân hàng Nhà nước tại điều 38. Đại biểu nhận xét quy định như dự thảo Luật chung chung, không cụ thể cung cấp thông tin gì... Đại biểu Nguyễn Thị Kim Tiến (Hà Tĩnh) đề nghị trong Luật cần bổ sung quy định chế tài xử lý những trường hợp cung cấp thông tin sai lệch, gây ảnh hưởng không tốt việc điều hành của ngân hàng.
BÍCH THỦY-QUỲNH HOA (TTXVN)